Chỉ vài thập niên trở
lại đây, hàng loạt di sản văn hóa Việt Nam được cấp giấy chứng nhận. Loại tầm tầm
thì đóng dấu quốc gia. Loại kha khá thì nhờ UNESCO ký duyệt. Trước chứng nhận
là cổ động tuyên truyền. Sau chứng nhận là đón rước linh đình, nâng ly hỉ hả.
Và sau nữa thì đa số di sản văn hóa ấy lâm vào “Cảnh đấy người đây luống đoạn
trường”!
Di sản hay bất động sản ?
Di
sản văn hóa được phân làm hai loại : Vật thể và Phi vật thể. Việc bảo tồn,
trùng tu, tôn tạo, hay cấp chứng chỉ danh phận, phân bậc đẳng cấp cho một di sản
văn hóa là cần thiết. Các di sản kiến trúc văn hóa của Việt Nam đa phần là nhỏ
bé, phân tán, non tuổi, lý lịch không rõ ràng, phục dựng, bảo tồn chưa chuyên nghiệp
nên chỉ so với ở khu vực Đông Nam Á thôi cũng thuộc top dưới. Đó là sự thật.
Nhìn nhận khách quan như thế để khỏi vướng vào bệnh tự huyễn hoặc “rừng vàng,
biển bạc” như sách giáo khoa dạy học sinh mấy chục năm trước.
Di
sản kiến trúc văn hóa có vóc dáng sử thi đáng kể nhất trên lãnh thổ Việt Nam
còn lại cho đến thời điểm này là hệ thống tháp Chàm ở Nam Trung bộ. Tháp Chàm
là của người Chăm. Người Việt ta chỉ có cố đô Huế, hoàng thành Thăng Long được
xem là 2 di sản kiến trúc văn hóa tầm cỡ, có độ tin cậy nhất định. Kinh thành,
đền đài, lăng tẩm ở Huế phần lớn mới xây dựng cách nay một vài trăm năm, còn
Hoàng Thành Thăng Long, chủ yếu chỉ có giá trị về khảo cổ học. Các di tích văn
hóa thuần Việt ấy, xét về nhiều mặt, cũng không thể sánh với Angkor Wat của
Campuchia hay Cánh Đồng Chum của Lào. Có những di sản văn hóa trước đây ta cứ nghĩ của riêng người Việt. Chẳng
hạn, Inđonexia, Philippin cũng có trống đồng, tương tự về niên đại, hoa văn như
trống đồng Ngọc Lũ, Đông Sơn..., vậy.
Từ
khi UNESCO đưa ra khái niệm văn hóa phi vật thể, một số nước, chủ yếu là châu Á
rất hăng hái lập dự án, vận động dư luận trong và ngoài nước để có nhiều di sản
văn hóa phi vật thể được công nhận. Trung Quốc dẫn đầu thế giới, với 26 di sản
loại này. Ngành văn hóa nước ta cũng “nhanh chân” đề xuất, “nỗ lực phấn đấu” để
được công nhận tới 7 di sản. Theo nhận xét của nhiều người, trong số 7 di sản
văn hóa phi vật thể đó chỉ có 4 di sản đáng kể là : Dân ca quan họ, Nhã nhạc
cung đình Huế, Đờn ca tài tử Nam bộ, Không gian cồng chiêng Tây Nguyên. Số còn
lại, nếu đem so với Vũ điệu Tan-go của Argentina, Gagaku của Nhật hay Kinh kịch
của Trung Quốc thì độ chênh quá lớn.
Di
sản văn hóa chẳng những là niềm tự hào của dân tộc, mà còn đem lại lợi ích kinh
tế cho quốc gia thông qua hoạt động du lịch, cũng cần quảng bá để bạn bè quốc tế
chia sẻ, quan tâm. Những di sản có giá trị văn hóa đích thực rất cần được bảo tồn
để các thế hệ mai sau chiêm nghiệm, kế thừa tinh hoa tư tưởng cũng như nghệ thuật
của cha ông. Tuy nhiên, cần phải lựa chọn những di sản xứng tầm, nhất là khi
“đem chuông đi đánh nước người”. Nếu chạy theo số lượng thì vừa lãng phí ngân
sách lại làm cho du khách tham quan thất vọng. Và hệ lụy của những di sản ấy
thành thứ bất động sản “bỏ thì thương, vương thì tội”. Hiện không ít các di
tích lịch sử văn hóa của Việt Nam, cả năm không bóng người thăm quan. Nhưng
cũng có di sản văn hóa đích thực bị bỏ rơi hoặc xem thường. Cầu Long Biên – Hà
Nội là ví dụ điển hình.
UNESCO
là một tổ chức văn hóa quốc tế, chủ yếu đóng vai trò kết nối, quảng bá, nặng về
hình thức hồ sơ, chứng chỉ, không có thực lực tài chính để góp phần bảo tồn các
di sản của các nước mà họ sẵn lòng công nhận. Di sản văn hóa của Việt Nam ta chỉ
có thế và cũng nên nhìn nhận như thế ! Vẽ vời, tô hồng di sản, không làm giá trị
văn hóa, danh thơm của đất nước tăng thêm, mà ngược lại. Tầm vóc của một quốc
gia không chỉ phụ thuộc vào thâm niên lịch sử, diện tích lãnh thổ hay dân số. Mỹ
hiện là một trong các quốc gia trẻ nhất thế giới nhưng hùng mạnh nhất thế giới.
Singapo có diện tích xấp xỉ đảo Phú Quốc và số dân già nửa Sài Gòn nhưng hiện
thời mặt bằng văn hóa, kinh tế, giáo dục, phúc lợi xã hội, cao hơn hẳn Việt Nam
ta. Đó là sự thật .
Bù lại tầm vóc nhỏ bé của các di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể, Việt Nam có những danh lam thắng cảnh khá độc đáo và hấp dẫn được
thiên nhiên ban tặng, chia đều cho ba miền đất nước. Miền Bắc có vịnh Hạ Long,
Yên Tử, Hoa Lư, Hương Sơn, Sa Pa...Miền Trung và Tây Nguyên có Phong Nha-Kẻ
Bàng, bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Bà Nà, vịnh Nha Trang, Mũi Né, Đà Lạt...
Miền
Nam có Cát Tiên, Côn Đảo, Cửu Long, Trà Sư, Bảy Núi, Phú Quốc...
Cảnh quan thiên nhiên nếu được con người tôn trọng thường
khó mai một theo thời gian nên chi phí cho duy tu bảo dưỡng cũng ít, trong khi
xu hướng của thế giới hiện đại lại đang hướng về những nơi này. Trong số cảnh
quan thiên nhiên kể trên, Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng gần đây được cả thế
giới quan tâm vì những phát hiện mới lạ, độc đáo, kỳ vĩ . Đó là sự thật đáng tự
hào.
Tháng 7 năm 1991, tình cờ trong một lần tránh cơn mưa rừng
trở chứng dữ dằn, anh Hồ Khanh thấy một cửa hang rất lạ. Sau đó, nhiều lần anh
Khanh trở lại nơi này tìm kiếm nhưng cửa hang kia mất dấu. Mãi đến năm 2006, Hiệp
hội hang động Hoàng Gia Anh, với những trang thiết bị thám hiểm hiện đại nhất,
được Hồ Khanh dẫn đường, mới khám phá ra một trong những kỳ quan thiên nhiên bậc
nhất thế giới mang tên Hang Đoòng. Hang Đoòng rộng 152m, cao 200m, dài 9.000m,
hình thành cách nay 3,5 triệu năm, có sinh vật hóa thạch 300 triệu năm..., vượt
xa kỷ lục thế giới mà hang Deer của Malaysia đang sở hữu.
Hang Đoòng không có dấu tích của người tiền sử, một tuyệt
tác hùng vĩ, còn nguyên trinh của thiên nhiên. Những dòng sông ngầm trong vắt,
những thềm cát tinh khôi, những bãi đá trân châu và cả những khu rừng nguyên
sinh, đã phối cảnh thành không gian thần tiên trong lòng đất. Hang Đoòng làm cả
thế giới hướng về Phong Nha-Kẻ Bàng.
Ngày
22 tháng 4 năm 2009, tiến sỹ Howard Limbirt, một chuyên gia hang động hàng đầu
thế giới đã ra thông cáo báo chí, chính thức khẳng định Sơn Đoòng hiện là hang
động lớn nhất thế giới. Những năm tiếp theo, giới truyền thông quốc tế liên tục
tổ chức thực địa để thẩm định các thông tin của tiến sỹ Howard Limbirt, rồi đồng
loạt đăng bài phản ánh, đánh giá sự độc đáo của Hang Đoòng như tờ The Guardian
(Anh), trang điện tử Foxnews (Mỹ), tạp chí News (Úc), tạp chí National Geographia
(Hiệp hội du lịch thế giới)... Tháng 4 năm 2013, hãng phim truyền hình Hồng
Kong TV đã thực hiện một phóng sự công phu về Hang Đoòng, phát sóng tới gần 100
quốc gia. Gần đây, hãng phim Kyodo đã hoàn thành bộ phim khoa học 3D đầu tiên về
Hang Đoòng mang tên “Hãy cảm nhận sự vĩ đại của thiên nhiên” và kênh truyền
hình NHK của Nhật Bản đã trình chiếu bộ phim này tới 60 nước trên thế giới.
Nhưng Sơn Đoòng chưa phải là hang động cuối cùng của Phong
Nha – Kẻ Bàng. Đầu năm nay, người ta lại phát hiện thêm hang động Vả, dài 1,7
km, nghe nói, tuy nhỏ nhưng hang động này còn đẹp hơn Hang Đoòng gấp nhiều lần.
Di sản con người
Trong khi các bộ, ngành, địa phương đặc biệt quan tâm đến
việc lập dự án bảo tồn, bảo tàng, cổ động tuyên truyền, vận động UNESCO công nhận
di sản văn hóa thì lại sao nhãng đến loại di sản văn hóa đặc biệt của dân tộc, của
quốc gia, đó là di sản con người. Người Việt Nam chúng ta hiện nay đang nguy cơ
lây nhiễm các hội chứng cực kỳ nguy hiểm. Nếu không “duy tu, bảo dưỡng” kịp thời
thì những thế hệ tiếp theo sẽ phải thừa hưởng nỗi buồn di sản.
Trước hết là hội chứng dối trá. Công chức sai hẹn với dân.
Học trò quanh co trước thầy. Con cái phỉnh phờ cha mẹ. Anh em, vợ chồng, đồng
nghiệp lường gạt lẫn nhau. Rồi bằng giả, học giả, hồ sơ chứng từ giả, tâm linh
giả...Hình như dối trá đã trở thành mốt kỹ năng sống cho không ít người Việt
đương thời.
Thứ hai là hội chứng vô liêm sỉ, nói cách khác là không biết
tự trọng. Khi mà con người không còn tự trọng sẽ không biết xấu hổ, không biết
xấu hổ sẽ tùy tiện làm mọi việc xấu. Tham nhũng, hối lộ, chạy chức chạy quyền,
hàng giả, hàng nhái, buôn thần, bán thánh, ăn nói tục tĩu, hành vi thô lậu...,
đang diễn ra gần như công khai, là nỗi ám ảnh, đau xót cho những người tử tế .
Một trong những tật xấu của người Việt đang nảy
nở theo cấp số nhân là thói ăn cắp vặt. Ăn cắp vặt thời gian ở công sở (làm trễ,
về sớm,vừa làm vừa chơi...). Ăn cắp vặt lẫn nhau. Ăn cắp vặt ở công ty, xí nghiệp,
siêu thị... Thói ăn cắp vặt đang làm xấu đi hình ảnh của người Việt trước bạn
bè quốc tế. Tế nhị như người Nhật, họ cũng phải trương những dòng chữ cảnh báo
bằng tiếng Việt ở những nơi “nhạy cảm” : “Ăn cắp vặt là phạm tội. Có thể tù dưới
10 năm. Came ra đang hoạt động...”. Thế mà vẫn xảy ra những vụ việc, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thể diện quốc gia. Ở Anh, Đức, Singapor, Nhật..., đã có những
người Việt ăn cắp trong siêu thị, bị bắt quả tang. Mới đây, Nhật Bản lại phát
hiện một tiếp viên hàng không của Vietnam Airlines, tham gia đường dây tiêu thụ
hàng mỹ phẩm ăn cắp ở các siêu thị trên nước Nhật. Theo phát ngôn của cơ quan cảnh
sát quốc gia Nhật, được báo Sankel đăng tải ngày 22 tháng 2 năm 2014 thì trong
tổng số các vụ ăn cắp vặt ở nước này có 40% là người Việt Nam. Số vụ người Việt
ăn cắp vặt ở Nhật năm 1998 có 247 vụ, năm 2012 tăng lên 999 vụ.
Chúng
ta nghĩ gì khi thấy những tấm biển bằng tiếng Việt treo trước các quán ăn mà
khách du lịch người Việt tham quan Băng Kốc thường lui tới “Xin vui lòng ăn bao
nhiêu, lấy bấy nhiêu. Ăn không hết bị phạt từ 200 đến 500 bath”.
Còn
rất nhiều hội chứng khác như hành xử bạo lực, a dua, lãng phí, nghiện ngập...,
làm tổn thương đến tình cảm gia đình, họ mạc, cộng đồng, phương hại đến giá trị
sống của cả một quốc gia.
“Học
thầy không tày học bạn”. Những ai có dịp tham quan, học tập, làm việc ở Nhật Bản
thì có lẽ không khỏi ngạc nhiên khi đem so sánh hành vi, thói quen của người nước
mình và người nước bạn. Những đường phố chính ở Nhật Bản thường kín mít xe hơi,
nhưng rất ít tiếng còi xe. Nếu đi taxi, bạn sẽ được bác tài chọn đường ngắn nhất
để đưa bạn đến bến xe buýt, bến tàu điện ngầm gần nhất, giúp bạn di chuyển
nhanh, tiết kiệm tối đa thời gian và tiền bạc. Chủ nhân các ngôi nhà vườn ở ngoại
ô có thể tiêu thụ sản phẩm tăng gia mà không cần phải nghỉ việc ở công sở để
đem đi bán. Chẳng hạn, nếu rau, gà, trứng ăn không hết, người ta ghi giá mỗi
con gà, mỗi bó rau...Người qua lại nếu muốn mua, tự lấy hàng, tự tính tiền rồi
bỏ tiền vào thùng đặt cạnh đó. Ở Nhật Bản, làm “sếp” to, nhỏ cũng như mọi nghề
nghiệp khác, bình đẳng như nhau trong gia đình, ngoài xã hội, trước pháp luật...
Những
giá trị di sản con người của Nhật Bản được thế giới ngưỡng mộ là tư tưởng võ sĩ
đạo, là sự trung thành với đất nước, là tinh thần lao động cần cù sáng tạo, là
bản lĩnh trước hiểm nguy, là lòng tự trọng, tự tin và ứng xử nhân văn. Câu chuyện
về viên sĩ quan Hiroo Onoda cùng hai đồng đội kẹt lại trong rừng rậm trên đảo
Luzon của Philippines từ cuộc chiến tranh Thái bình dương năm 1944, vẫn kiên
trì bám trụ, thực thi nhiệm vụ, chưa tin chiến tranh đã kết thúc vì chưa nhận
được lệnh rút lui của cấp trên, tưởng như chỉ có trong tiểu thuyết. Mãi đến năm
1974, người chỉ huy trực tiếp của viên sỹ quan này, bay từ Nhật tới, dùng loa
trên trực thăng truyền đi mệnh lệnh thì Hiroo Onoda mới hạ vũ khí. Đích thân Nhật
Hoàng đã tham dự lễ trao nộp thanh kiếm samurai của Hiroo Onoda theo đúng nghi
thức nhà binh của quân đội Nhật.
Còn
rất nhiều câu chuyện về phẩm của người Nhật mà nhiều người chưa có dịp chứng kiến,
lắng nghe, chiêm nghiệm. Nhưng những sự kiện lịch sử nổi bật thời hiện đại hơn
nửa thế kỷ qua thì ai cũng biết : Đất nước “mặt trời mọc” luôn tự mình đứng dậy
sau các cuộc tàn phá ghê rợn của bom nguyên tử, của sóng thần, núi lửa, trở
thành một trong những quốc gia hùng mạnh về kinh tế, văn hóa, giáo dục. Ngày
nay, người Nhật Bản không chỉ thuyết phục cả nhân loại qua các sản phẩm xuất khẩu
có độ tin cậy hàng đầu thế giới, mà con người Nhật Bản tới quốc gia nào cũng được
ngưỡng mộ, tôn trọng, bởi văn hóa ứng xử của họ. Đó là di sản văn hóa quí giá
nhất của một dân tộc, một quốc gia.
Đương
nhiên, ở đâu có con người là có những vấn nạn xã hội, kể cả Nhật Bản, Mỹ, Pháp,
Anh, Thụy Điển, Đan Mạch... Vấn đề ở chỗ, tỷ lệ giữa cái thiện và cái ác, cái đẹp
và cái xấu là bao nhiêu so với dân số của quốc gia ấy. Chưa thể thống kê trong
số 90 triệu di sản con người Việt Nam hiện
hữu, có bao nhiêu triệu di sản đã bị chắp vá, biến thái, hư hỏng, hoang phế.
Nhưng chắc chắn rằng xu hướng cái ác, cái xấu đang chiếm ưu thế trong xã hội
chúng ta.
Phong
trào Đông Du cách nay gần 100 năm của các chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu,
Tăng Bạt Hổ, Lương Ngọc Quyến..., vẫn còn là bài học cảnh tỉnh cho những người
lãnh đạo đất nước cần có hành động kịp thời để chấn hưng văn hóa, chấn hưng đất
nước.
SÀI GÒN 2014
Ngô Quốc Túy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét