NGÔ QUỐC TÚY
Mỗi năm, Trăng có hai cái tết, rằm tháng giêng và rằm
tháng tám. Rằm tháng giêng gọi là tết Nguyên Tiêu. Rằm tháng tám gọi là tết
Trung Thu. Tết Nguyên Tiêu là tết của thơ. Tết Trung Thu là tết của của con nít.
Phải chăng, thi ca và trẻ nhỏ là những thứ mà chị Hằng tin yêu nhất ở trần gian.
Tết Trung Thu có nguồn
gốc dân dã từ văn minh lúa nước. Những nghiên cứu mới nhất về văn hóa dân gian
cho thấy, tết Trung Thu khởi nguyên từ đồng bằng châu thổ sông Hồng của người
Việt, sau đó du nhập vào Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Trung Thu xa xưa ở
Việt Nam, lễ rước đèn, bày cỗ, phá cỗ, hát trống quân…dưới trăng là những nghi
thức quan trọng nhất.
Bày
cỗ trung thu thực chất là màn trình trời những sản vật, hương hoa của đất. Vì vậy
cỗ trung thu không thể thiếu xôi, bánh, cốm và 7 loại trái cây : Bưởi, thị, chuối,
hồng, ổi, na, táo. Tết Trung Thu là tết của những thiên thần bé nhỏ được sự chuẩn
bị, chăm sóc của người lớn. Trẻ em phá cỗ trông trăng và mơ màng về hình bóng
chú Cuội dưới gốc cây đa nơi Cung Hằng dịu dàng, yêu thương tràn ngập. Trí tưởng
tượng của mắt ngọc bay bổng theo huyền thoại về chú Cuội mải chơi, để người bạn
là cây đa cổ thụ dưới đất thui thủi một mình. Buồn chán, đa bật gốc bay lên trời.
Cũng may, Cuội kịp biết, đuổi theo, bám được vào rễ đa, bay theo, và cứ ở mãi
trên cung trăng, chẳng chịu về trái đất…
Bánh
nướng, bánh dẻo mãi sau này mới có. Hai loại bánh này ở Việt Nam xuất xứ từ
làng Báo Đáp huyện Nam Trực tỉnh Nam Định, sau này được phát triển về phương
Nam, tập trung tại làng Phú Bình, trấn Sài Gòn Gia Định, gần công viên văn hóa
đầm sen bây giờ.
Đồ
chơi tết Trung Thu thuở xa xưa chủ yếu là đèn ông sao, mặt nạ thú, trống ếch và
trống bỏi. Đèn kéo quân, đèn lồng…sau này bổ sung thêm. Ông tổ của nghề đèn lồng
Việt Nam là Xã Đường ở Hội An, Quảng Nam. Đèn lồng Hội An được các thương gia
người Nhật, người Hoa rất ưa chuộng vì kiểu dáng phong phú mềm mại, lại được lợp
bằng lụa Hà Đông nuột nà, hoặc giấy gió Tây Hồ dai mịn.
Nhịp trống quân thùng, thình, thùng…nhịp trống bỏi binh,
bông, binh…cùng với ánh đèn ông sao mờ ảo, hương cốm, hương bưởi, hương ổi,
hương hồng…ngọt ngào, thấm đẫm vào ánh trăng rằm vằng vặc, rong ruổi trong làn
gió nhẹ đêm thu, ríu rít những bàn chân sáo…là thế giới kỳ ảo muôn màu của trẻ
thơ, của ước vọng hòa bình. Thế giới ấy không chỉ lay động, xao xuyến tâm hồn
con trẻ mà còn quyến rũ, rủ rê người lớn cùng ùa vào cuộc chơi.
Hình
ảnh những người cha cặm cụi vót tre làm đèn ông sao, những người mẹ lễ mễ mẹt
trái cây, cốm, xôi sắp cỗ, những đứa trẻ chơi trò bịt mắt bắt dê, thả đỉa ba ba
chờ trăng rằm mọc… là những nét đẹp kinh điển phổ biến của văn hóa Việt mỗi dịp
tết Trung Thu của những thập niên 1970 trở về trước. Ngày ấy, ngẫu hứng về
thiên nhiên vẫn rong ruổi bất tận cùng mây gió. Ngày ấy vang vọng mãi khúc ca
“Thằng Cuội” ngồ ngộ của nhạc sỹ Lê Thương, vần thơ vờ vĩnh, ỡm ờ của Tản Đà…bốc
đồng giữa mênh mang trăng sao và thế giới
đời thường của con trẻ. Trăng rằm trung thu mọc lặn trong thơ ca, nhạc, họa,
trong buồn vui đời người.
Đêm trung thu còn là đêm nông nhàn của nghề cày cấy. Lúc
này lúa vụ mùa đã vào đòng, chỉ chờ sây bông mẩy hạt, bội thu hay thất bát đã
thấy già một nửa, đức tính lo xa của con người lại hướng tới ngày mai. “Muốn có
cái ăn tháng năm, trông trăng rằm tháng tám”. Trẻ con trông trăng để bay bổng
cùng cây đa, chú Cuội. Người lớn trông trăng kiếm tìm hy vọng cơm áo năm sau. Bằng
kinh nghiệm dõi theo chu kỳ của tạo hóa, người xưa rút ra tiền định qua nhan sắc
Hằng Nga mỗi tết trung thu : trăng màu vàng trúng mùa tằm tơ, trăng xanh lục
báo hiệu thiên tai, trăng màu cam đất nước thái bình thịnh trị. Nhưng dù điềm
lành hay điềm dữ, thì con người vẫn đồng hành, say đắm cùng trăng quanh năm suốt
tháng.
Cùng
với sự phát triển của thời đại, tết trăng cũng đổi thay.Có những thay đổi làm
cho tết trăng phong phú hơn. Múa lân, múa sư tử, múa rồng mỗi ngày mỗi đẹp
thêm, hoành tráng thêm. Đèn lồng, đèn ông sao, đèn kéo quân…nhiều kiểu dáng mới
lạ bắt mắt được thắp sáng bằng điện bằng pin, lunh linh rực rỡ hơn thắp sáng bằng
đèn cầy, đom đóm. Mâm cỗ trung thu thêm nhiều hương vị, màu sắc bởi các loại
bánh được chế biến theo công nghệ hiện đại. Tuy vậy, tết trăng ngày mỗi dần xa
vẻ đẹp lãng mạn mê hồn thời nguyên thủy của nó.
Tết
Trung Thu ở Việt Nam vài chục năm trở lại đây không còn là tết trăng của riêng
lũ trẻ nữa. Sự tham lam, vô cảm của người lớn như bóng đen, bành trướng, chiếm
đoạt dần sân trăng của tuổi thần tiên. Những thương hiệu bánh thu nổi tiếng như
Kinh Đô, Đồng Khánh, Đức Phát, Như Lan… có giá từ 100 nghìn đến hàng triệu đồng
một hộp đã được bày bán ở Sài Gòn, Hà Nội trước tết trung thu hơn một tháng.
Bán trước như thế để người lớn chọn lựa mua làm quà biếu, quà biếu những người
lớn khác, những người lớn có chức có quyền. Người ta còn làm nhân bánh trung
thu bằng vàng, kim cương, mượn tết trăng để đút lót, chạy chức, chạy quyền, chạy
dự án. Mỗi mùa trung thu, thị trường Việt
Nam tiêu thụ khoảng 8 nghìn tấn bánh trị giá hơn một nghìn tỉ đồng nhưng hai phần
ba số ấy là quà biếu dành cho người lớn.
Đa
số trẻ em thành phố thừa bánh thiếu trăng. Đa số trẻ em vùng sâu vùng xa thừa
trăng thiếu bánh. Sự thừa mứa, lãng phí của những đứa trẻ con nhà giàu có và sự
thèm khát, thiếu thốn của những đứa trẻ con nhà nghèo khó phải được nhìn nhận
như sự bất nhẫn của người lớn dễ làm tổn thương tâm hồn con trẻ. Hình ảnh và
nghĩa cử của ông già Noen trong lễ giáng sinh, một nét đẹp nhân văn của văn hóa
phương Tây, được chúng ta tự giác tiếp nhận sâu rộng từ nửa cuối thế kỷ 20, đến nay đã đương nhiên hòa nhập vào đời sống
tinh thần người Việt. Nếu dịp tết trung thu có
thật nhiều những hình ảnh, nghĩa cử tương tự như vậy với trẻ em nghèo
thì đáng quí biết chừng nào.
Có
lẽ sướng nhất lúc này là chú Cuội. Sướng là vì chú ở trên cao, được xem mọi thứ
đang diễn ở trần gian. Sướng là vì chú đang chờ đón cõi người thưởng trăng đón
tết. Sướng là vì chú lại được nghe thơ của bác Tản Đà :
“Có
bầu có bạn can chi tủi Cùng gió cùng mây thế mới vui Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám Tựa đa, trông xuống thế gian cười!”
TRUNG THU
SÀI GÒN 2014 - N.Q.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét