Thứ Hai, 6 tháng 10, 2014

Hồn Phố

                     
                                                                                                     
NGÔ QUỐC TÚY

Ân tượng về một thành phố không chỉ là những cao ốc chọc trời, shop sang trọng, hay những đại lộ thênh thang. Phố còn là “quê”, là “làng”, là “xóm” của dân thành thị. Không chỉ là nơi cư ngụ, mưu sinh, mà đó còn là nơi ẩn náu, lưu giữ buồn vui, lưu giữ vẻ đẹp quá vãng của hồn phố, hồn người !


Văn chương, chữ nghĩa

Hà nội là một trong số ít thành phố ở Đông Á có vẻ đẹp duyên dáng, thanh lịch, đượm màu hoài cổ. Năm 1010 mang tên Thăng Long, năm 1400 mang tên Đông Đô, năm 1831 mang tên Hà Nội. Thời nào vùng đất này cũng ma mị, quyến rũ văn chương, chữ nghĩa.

Hình như hầu hết các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam từ cổ chí kim đều có tác phẩm viết về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Tính từ “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn đến nay đã có hàng ngàn văn bản văn chương như thế. Nhưng những tác phẩm văn chương để đời về đề tài Hà Nội lại thuộc về những cây bút gốc Hà Nội. Phải chăng, chỉ những ai chôn nhau cắt rốn ở đất rồng bay mới thẫm đẫm và thăng hoa tận cùng hồn phố, hồn người Tràng An này.
 
Về  thể loại “phú”, có lẽ chưa có tác phẩm nào vượt được “Tây Hồ phú” (còn được gọi là “Tụng Tây Hồ”) của Nguyễn Huy Lượng (1737 -1808), sáng tác ngày 21 tháng 6 năm Tân Dậu, 1801. “Tây Hồ phú” gồm 86 liên, chỉ sử dụng độc vận “hồ”. Tác phẩm viết tay này chưa ráo mực đã được lan truyền khắp Hà Thành. Hàng vạn người đổ xô đi mua giấy để chép lại bản thảo, khiến giá giấy khi đó tăng vọt. “Tây Hồ phú” như một áng văn ba chiều cảm xúc, khúc xạ vẻ đẹp mênh mang, xa vắng, kiêu sa của cảnh vật và con người nơi Hồ Tây. Quả thực, dòng sông mẹ Hồng Hà trước lúc đổi dòng, đã sinh nở ra Hồ Tây như thể báu vật của thủy thần hiến tặng cho kinh kỳ Thăng Long vậy. 

Hồ Tây cách đây hơn nửa thế kỷ, khi chưa bị con người làm vẩn đục, chẳng kém gì hồ Orta (Italia), hồ Saimua (Phần Lan), hồ Annecy (Pháp)..., những hồ đẹp bậc nhất thế giới. Nguyễn Huy Lượng còn có bài thơ thất ngôn bát cú “Phong cảnh Tây Hồ” đọc ngược, đọc xuôi đều không thất liêm, thất luật, thất vận.

Hồ Tây còn có 8 cái tên khác nữa là : Hồ Kim Ngưu, Hồ Lãng Bạc, Đầm Xác Cáo, Hồ Dâm Đàm, Tây Hồ, Đoài Hồ, Diêm Hồ, Hồ Liên Đàm. Có tên do truyền thuyết, có tên do vua đặt, có tên do “hữu xạ tự nhiên hương”. Chẳng hạn, như hai cái tên : Hồ Lãng Bạc (hồ vỗ sóng), Hồ Dâm Đàm (hồ mù sương)...Những cái tên “hữu xạ tự nhiên hương” ấy mới thật sự làm cho ngọn bút của Nguyễn Huy Lượng trong “Tây Hồ phú” như phượng múa rồng bay !   
                            
Hồ Tây rộng 500 ha, chu vi 18 km, “Dư ngàn mẫu nước trời lẫn sắc. Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa” (Tây Hồ phú). Hồ Tây xưa được bao bọc bởi các làng nghề, làng hoa như Thụy Khê, Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá... Sen, đào, địa lan, tơ lụa, giấy, sâm cầm..., là những sản vật nổi tiếng của Hồ Tây mà kẻ sỹ Bắc Hà thời nào cũng bị hút hồn cùng với “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương” (Ca dao) . Sản vật ấy không chỉ nuôi sống con người mà còn là chứng tích lịch sử về những thời đại, thể chế hào hoa nhân bản. Đất lành chim đậu. Từ thập kỷ 1990, không thấy sâm cầm bay về đây nữa !

Hồ Tây là cõi riêng của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Thời nào bảo tồn được cõi riêng ấy là vạn vật nơi này được hưởng lộc trời. “Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng. Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co” (Tây Hồ phú). Suốt mấy ngàn năm, Hồ Tây đủ sung túc cho những cư dân ở đây mưu sinh, thừa nhan sắc cho thi, nhạc, họa vẽ vời, ngâm ngợi. Hồ Tây còn là chốn tâm linh diệu vợi. Đền Quan Thánh, chùa Trấn Quốc, đền Sóc, chùa Bà Đanh, đền An Trì, đền Võng Thị, chùa Thiên Niên..., và hàng chục kiến trúc tín ngưỡng khác đã làm cho miền nước mây này ảo ảnh, thăng hoa đức tin  nơi trần thế.

“Trải Trần trước đã nhiều phen xe ngựa. Đến Lê sau càng lắm độ tán dù” (Tây Hồ phú). Hồ Tây đã từng soi bóng lầu son gác tía của những mỹ nhân cành vàng lá ngọc, những nữ thành hoàng được người dân sùng kính, tôn thờ. Đó là, cung Từ Hoa (nay là chùa Kim Liên) của công chúa Từ Hoa, (con gái vua Lý Thần Tông), cũng là người dạy dân dựng trại (làng), trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Đó là cung Thúy Hoa, cung Hàm Nguyên, là công chúa Túc Trinh (con gái vua Trần Thánh Tông), vương phi Ngọc Xuyến (vợ chúa Trịnh Tạc)... Hồ Tây như thể “tử cấm thành” xây bằng mây nước, soi ngắm biết bao bóng hồng đài trang của các vương triều nước Việt.

Về thơ, tính đến thời điểm này, “Thăng Long hoài cổ” vẫn là thi phẩm số một viết về Hà Nội. Bài thơ ra đời sau khi nhà Nguyễn xuống chiếu chuyển kinh đô nước Việt về Huế. “Thăng Long hoài cổ” thực sự là tượng đài của hồn phố, mãi hoài vọng thuở vàng son của mảnh đất cố đô nghìn năm văn hiến. Có lẽ chỉ có tài hoa của Bà Huyện Thanh Quan (1805 – 1848), tác giả bài thơ, cũng là người gốc Hà Nội, mới diễn đạt được nỗi niềm quá vãng về thời khắc bể dâu của trang sử kinh kỳ trong 8 câu 56 chữ.

Văn xuôi viết về Hà Nội, có lẽ cũng chưa ai vượt được người Hà Nội Nguyễn Tuân (1910 – 1987). “Hương cuội” đặc tả cách uống rượu, ngâm thơ, ngắm hoa tao nhã như chốn bồng lai. “Những chiếc ấm đất” chuyên về sự công phu, thư thái bởi thú thưởng trà. “Phở” diễn đạt sự thú vị đến đầu môi chót lưỡi, là tuyên ngôn về văn hóa ẩm thực : Ăn cũng phải đẹp !. “Chữ người tử tù” là cảm khái về thư pháp và nhân cách của người trí thức. “Cây Hà Nội”, “Con hồ Hà Nội” lại sang chuyện cây cỏ, nước non... 

Đọc văn Nguyễn Tuân viết về Hà Nội, người tinh tế, nhạy cảm thấy thèm ăn một tô phở Bát Đàn, thèm uống một chén trà ướp sen Tây Hồ, thèm hít hà mùi địa lan của Nghi Tàm thuở trước. Chữ nghĩa trong những trang văn của Nguyễn Tuân viết về Hà Nội như lá mùa thu rơi vãi trên thềm phố cổ, tưởng như xô bồ, bề bộn nhưng xem kỹ, đọc kỹ, ngẫm kỹ thì thấy hình như đó là sự sắp đặt công phu của tạo hóa !

Cung bậc, sắc màu
Cùng với văn chương, những nốt nhạc, nét cọ về Hà Nội cũng chứa đựng những cung bậc, sắc màu riêng của hồn phố chốn kinh kỳ. Cũng như văn chương, sáng tác ca khúc hay vẽ tranh về Hà Nội luôn là cuộc cạnh tranh nghệ thuật đỉnh cao mà kết cục đều lưu danh những tác giả, tác phẩm tầm cỡ thế giới. Trong số hàng chục tên tuổi âm nhạc, hội họa, Bùi Xuân Phái và Phạm Duy là hai ví dụ điển hình.

Bùi Xuân Phái (1920 – 1988) sinh ra và lớn lên trong căn nhà số 87 phố Thuốc Bắc. Tuổi thơ ông, con đường sự nghiệp của ông vui buồn cùng hồn phách rêu phong của tường phố, mái phố, ngõ phố Hà Nội. Bùi Xuân Phái thuộc thế hệ sinh viên khóa cuối cùng của trường Mỹ Thuật Đông Dương. Năm 1957, ông bị tước quyền giảng dạy ở Trường Mỹ Thuật Hà Nội vì dính líu đến vụ Nhân văn giai phẩm. Hàng chục năm sau đó, cũng như Văn Cao, ông sống mà như không được sống, ông vẽ mà như không được vẽ. Để tồn tại, ông buộc phải vẽ bích họa, biếm họa cho các báo để gom nhặt nhuận bút “mì ăn liền” . Ông cố sống để vẽ, vẽ trên toan, trên giấy báo, trên vỏ bao diêm, bao thuốc... Tranh của Bùi Xuân Phái, chủ yếu vẽ về đề tài : Phố, Chèo, Thơ, Thiếu nữ và Tĩnh vật. Bùi Xuân Phái bắt đầu vẽ phố từ năm 1940. Hàng Mắm, Hàng Chĩnh, Hàng Khoai, Hàng Bạc..., trong tranh của Bùi Xuân Phái là những mảng màu, hình thể riêng biệt. Nếu xếp tranh các phố ấy theo góc nhìn kiến trúc sẽ tái hiện ra hẳn một thành phố cổ trầm tư, cô tịch nhưng lại không đơn điệu, tẻ nhạt. 

Gam màu chủ đạo của “Phố Phái” đặc trưng cho ba cung bậc : Màu Nâu (1960 – 1970) phố cổ lành lặn, chân chất ; màu Ghi  (1970 – 1980) phố cổ thâm trầm hiền triết ; màu Lam (1980 – 1988) phố cổ thanh thoát, nhẹ nhàng . Tranh phố của Bùi Xuân Phái là sự hòa quyện, đan xen, chồng lấn vẻ đẹp hiện đại và kinh điển. Mỗi bức tranh phố của ông chất chứa cảm xúc, tâm trạng và cả nỗi niềm, lo sợ trước dung nhan, hình hài phố cổ đang dần mai một.


“Phố Phái” không chỉ là tranh, là hội họa, nó còn là thông điệp cho con người hiện tại và thế hệ mai sau phải biết trân trọng và gìn giữ cái đẹp của quá khứ. “Phố Phái” đã trở thành thương hiệu nghệ thuật, thương hiệu hồn phố cổ của văn hóa Việt Nam !
         
Sau “Phố Phái” là “Chèo Phái”, “Thơ Phái”... Tranh chèo của Bùi Xuân Phái rẽ sang nẻo khác của tâm hồn. Đó là những khoảnh khắc hóm hỉnh, hài hước của Hề Say, Hề Gậy, là nét nanh nọc chua ngoa của  Đào Lệch, là vẻ nữ tính đằm thắm của Đào Thương. Bằng ngôn ngữ hội họa, Bùi Xuân Phái đã dàn dựng thành công không gian ước lệ, dân dã của sân khấu chèo, đậm đà sắc màu dân tộc.

Vẽ thơ Hồ Xuân Hương, nói đúng hơn là vẽ tứ thơ Hồ Xuân Hương, hồn cọ của Bùi Xuân Phái chuyển sang trường liên tưởng, cảm thụ hoàn toàn khác lạ với tính cách thường nhật của ông. “Phái Thơ” thật sự là những phóng tác táo bạo, đỏng đảnh, đa tình, ẩn chứa tâm tư khát vọng thỏa mãn bản năng chính đáng của con người nói chung và phụ nữ nói riêng. Xem những bức tranh này của ông, nhất là với các bạn trẻ, ban đầu có thể là trạng thái e thẹn, đỏ mặt sau đó là sự đồng cảm, sẻ chia. Năng lực thẩm thơ qua nét cọ của Bùi Xuân Phái, càng cho thấy họa sỹ này tinh tế, tài hoa, đa đoan đến nhường nào.
                
Cuộc sống chật chội, khó khăn, thiếu thốn của Bùi Xuân Phái ở số 87 phố Thuốc Bắc – Hà Nội không giam hãm, mai một được tư tưởng, tài năng, hồn phách của ông. Gần như cả cuộc đời, ông đã vẽ ánh sáng trong phòng tối, vẽ đam mê trong thất vọng, vẽ hồn phố trong đổ vỡ, hoang phế, vẽ tình người trong đen bạc . Lần triển lãm tranh công cộng duy nhất của Bùi Xuân Phái vào năm 1984. Trước đó ông vẽ tranh, một số theo đơn đặt hàng của sách báo quốc doanh, một số để tặng bè bạn thân thiết như Nguyễn Tuân, Dương Tường, Văn Cao...Có thể nói, nếu như tranh của Bùi Xuân Phái là hồn phố Hà thành, thì nhân cách, tâm tính ông là hồn người Hà Nội.

Một trong những đại thụ của âm nhạc Việt Nam thế kỷ 20 cũng là người gốc Hà Nội, nhạc sỹ Phạm Duy (1921 – 2013). Với 1000 ca khúc được sáng tác cho hàng chục dòng nhạc khác nhau (Quê hương, tình yêu, thiền ca, đạo ca, rong ca, tâm ca, tục ca, tị nạn ca...), nhạc sỹ người Hà Nội này đã lập những kỷ lục âm nhạc đáng ngưỡng mộ. Ca khúc đầu tiên viết về Hà Nội của Phạm Duy là ca khúc “Gươm tráng sỹ” kể về sự tích Hồ Hoàn Kiếm. Những năm tha hương, mỗi bản nhạc của ông là câu chuyện khóc cười theo tình đời, thế thời, vận nước. Nhạc của Phạm Duy (tâm ca, thiền ca, đạo ca) còn nhuốm màu triết học. Ông cũng là số ít nhạc sỹ Việt Nam có hành trình cuộc đời và sự nghiệp gắn với những biến cố thăng trầm của lịch sử. Ông cũng là trong số ít nhạc sỹ được các chính khách lớn như vua Bảo Đại, phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, thủ tướng Võ Văn Kiệt nhiều lần tiếp kiến vì mến mộ tài năng âm nhạc của ông. Tiến sỹ Eric Henry, người dịch hồi ký của Phạm Duy sang tiếng Anh, xuất bản ở Mỹ đã gọi nhạc sỹ người Hà Nội là “đại vương âm nhạc”. Năm 2005, ước nguyện được trở về sống và chết ở Việt Nam của nhạc sỹ Phạm Duy đã được toại nguyện. Có lẽ, hồn phố, hồn quê hương, hồn non nước đã gọi ông về !
  
Không phải là người Hà Nội, nhưng các ca khúc của Văn Cao (1923 – 1995), Trịnh Công Sơn (1939 – 2001), Hoàng Hiệp (1931 – 2013)..., viết về Hà Nội như thể trái tim của họ cũng hòa nhịp, chung chi với hồn phố Hà thành. “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về, như đài hoa đón mừng nở năm cánh hoa đào chảy dòng sương sớm long lanh...” (“Tiến về Hà Nội” – Văn Cao), “Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội...” (“Nhớ về Hà Nội” - Hoàng Hiệp), “Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ...” (“Nhớ mùa thu Hà Nội” - Trịnh Công Sơn)... Những ca từ ấy như những ngọn nến trong những dạ tiệc giao hưởng của mùa thu về “Thành cũ Thăng Long, hồn nước non thiêng, dấu xưa oai hùng. Hà Nội ơi !”. Chỉ lớn lên ở Hà Nội nhưng Đoàn Chuẩn (1924 – 2001) đã hít hà hồn phố, hồn thu Hà Nội, ướp vào những khuông nhạc của 19 ca khúc trữ tình. Chàng nhạc sỹ giàu có, phóng đãng, hào hoa được mệnh danh là công tử Bạc Liêu xứ Bắc này đã để lại những tình khúc vần vũ con tim, say nắng lòng người Hà Nội như “Lá đổ muôn chiều”, “Đường thơm hoa sữa gọi”, “Màu nắng có bao giờ phai đâu”... 

So với văn chương và hội họa, hình như âm nhạc nói chung, âm nhạc về đề tài Hà Nội nói riêng ngày càng có nhiều tác phẩm xuất sắc. Một phần do kỹ thuật thu âm, công nghệ truyền thông không ngừng phát triển, một phần do nhu cầu hưởng thụ ngày càng đông đảo của khán giả đối với loại hình nghệ thuật này. Thế hệ tiếp theo Phạm Duy, những nhạc sỹ người Hà Nội như Nguyễn Cường (1943), Trần Tiến (1947), Phú Quang (1949)..., vẫn đang tiếp tục nguồn cảm hứng bất tận về “Hà Nội phố”. 

“Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp. Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về...”. Tứ thơ của Bùi Thanh Tuấn được tung hứng, đong đưa trong cung bậc âm thanh của Trương Quí Hải như một thông điệp của những người Hà Nội đang trẻ muốn nói rằng : Hồn phố Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội không của riêng ai, không của một thời nào, không thể tùy tiện đổi thay, cũng như “đường Cổ Ngư xưa” mãi mãi vẫn là cái tên của quá khứ vàng son, mãi mãi là màu nắng của mùa thu, mà “màu nắng có bao giờ phai đâu” !

     
         “Có phải em mùa thu Hà Nội
         Nghìn năm sau níu bóng quay về...
         Có phải em mùa thu Hà Nội
         Ngày sang thu lót lá em nằm”
(Thơ Tô Như Châu – Nhạc Trần Quang Lộc) 

Tính đến tháng 9 năm 2014 đã có 1090 ca khúc viết về Hà Nội. Có lẽ, muôn thuở hồn phố thủ đô vẫn tơ tằm rút ruột, quấn nụ kén vàng, tiếp nối nẻo đường âm nhạc, chơi vơi theo dáng rồng bay !

SÀI GÒN MÙA THU 2014 – N.Q.T

Không có nhận xét nào: