NGÔ QUỐC TÚY
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975: Việt Nam và Mỹ là hai nước cựu thù ; Việt Nam và Mỹ đã xóa bỏ quá khứ, hướng đến tương lai ;Việt Nam và Mỹ hiện đang thiết lập “quan hệ đối tác toàn diện”, Việt Nam và Mỹ đang đàm phán Hiệp ước xuyên Thái Bình Dương TTP… Đó là điều ai cũng biết. Nhưng lịch sử còn ghi nhận, hai nước Mỹ, Việt tuy cách xa nửa vòng trái đất, vị trí địa chính trị, kinh tế, lịch sử văn hóa hoàn toàn khác biệt, đã có ý tưởng cùng nhau bang giao hợp tác ngay từ đầu thế kỷ 18.
Cơ hội bang giao giữa hai quốc gia cũng như duyên kỳ ngộ giữa hai con người, thường do “ông tơ, bà nguyệt” khởi xướng, nhưng phải chính tự tay con người xe kết mới thành. Những cơ hội lịch sử may mắn như thế lại rất hiếm hoi, và thường theo qui luật “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, phải mất rất nhiều năm cơ may mới lặp lại. Không là bạn thì sẽ có ngày là thù. Gây thù cực dễ, kết bạn không khó. Khó hay dễ lại cũng do chính con người mà ra. Đó là thông lệ của loài người, chẳng nên lý sự, biện bạch. Hình như, lịch sử đã đến chu kỳ chuyển dịch: Chu kỳ Việt – Mỹ đang xích lại gần nhau ?
Mười năm, hai lần “đò” lỡ chuyến
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), phái bộ ngoại giao Mỹ là ông Edumund Robeets mang quốc thư của tổng thống Mỹ Jackson cùng chiếc tàu Peacock vượt Thái Bình Dương vào biển Đông, cập bờ Vũng Lắm, vịnh Xuân Đài, thuộc địa phận Phú Yên. Nội dung của quốc thư ngỏ ý muốn bang giao với Việt Nam, trước mắt là những thỏa thuận về buôn bán. Người Mỹ lúc bấy giờ đã manh nha ý tưởng mở rộng tầm ảnh hưởng của họ sang bán cầu Đông. Tín hiệu của nước Mỹ phát đi, triều Nguyễn lập tức phản hồi. Vua Minh Mạng ủy quyền cho Nguyễn Tri Phương gặp phái bộ Mỹ thương thảo.
Phải nói rằng, Minh Mạng tuy ngồi trên ngai vàng nhưng là ông vua luôn thường trực tư tưởng cách tân, có tầm nhìn giao thương rộng mở. Rất tiếc là do hạn chế về kinh nghiệm ngoại giao với các nước phương Tây nên Nguyễn Tri Phương đã không hiện thực hóa được ý tưởng bang giao hội nhập với thế giới bên ngoài của Minh Mạng. Cơ hội lịch sử ấy của Việt Nam phút chốc qua đi. Không thiết lập được bang giao với Việt Nam, tàu Peacock cùng sứ bộ Edumund Robeets tiếp tục hành trình vượt biển Hoa Đông đến đất nước Phù Tang. Chuyến công du ngoại giao đầu tiên từ nơi mặt trời lặn đến nơi mặt trời mọc của con tàu Peacock đã góp phần làm cho Nhật Bản, từ một đất nước nghèo khó, cách trở, thành cường quốc công nghiệp hàng đầu của thế giới.
Sau khi đã đến Nhật, Việt Nam vẫn là địa chỉ ưu tiên ở Đông Á mà người Mỹ muốn hiện diện.
Năm 1845, tàu CONSTITUTION của Hoa Kỳ do thuyền trưởng John Percival chỉ huy tiếp tục cập cảng Đà Nẵng, vấn đề bang giao với Việt Nam lại được người Mỹ nhắc đến. Nhưng cơ hội lịch sử đã không còn. Vì lúc này vua Việt là Thiệu Trị chứ không phải Minh Mạng, John Percival là sứ bộ Mỹ chứ không phải là Edumund Robeets. Triều Nguyễn cử sứ thần Nguyễn Long dẫn đầu đoàn thương thuyết vào Đà Nẵng gặp Percival. Do tư tưởng dân tộc hẹp hòi của cả hai phía, sự cố đáng tiếc về bất đồng tôn giáo, cụ thể là thiên chúa giáo, được sứ thần hai nước đẩy lên cao trào. Kết quả đã xảy ra vụ nổ súng đáng tiếc trên biển giữa hai bên, mục đích bang giao thàng dã tràng xe cát. Được tin, tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là James Polk (1845 – 1849) đã khép tội Percival vì không hoàn tất công vụ.
Đến nhiệm kỳ tổng thống Mỹ tiếp theo, tổng thống Zachary Taylor đã viết thư xin lỗi vua Tự Đức về sự cố năm 1845. Rất tiếc, Tự Đức không kế thừa được những tư tưởng tiến bộ của Minh Mạng, mà lại vẫn nặng lòng với mối hiềm khích, hận thù thời Thiệu Trị. Bởi vậy, thiện chí của tổng thống Taylor, cơ hội cùng để hai nước Việt – Mỹ xích lại gần nhau đã vuột mất.
Sở dĩ chỉ trong vòng mười năm, hai lần người Mỹ tìm đến Việt Nam ngỏ ý kết nối bang giao là vì lúc đó, Mỹ chưa chiếm được vị thế toàn cầu. Anh, Đức, Pháp, đang là những thế lực hàng đầu trên thế giới. Đặc biệt với châu Á thì ảnh hưởng của Mỹ quá mờ nhạt. Trong khi Anh đã hiện diện ở Trung Quốc, Ấn Độ, Malaixia. Bồ Đào Nha đã hiện diện ở Macao. Hà Lan đã hiện diện ở Indonesia. Pháp đang hiện diện ở Lào, Việt Nam, Campuchia… Những lợi ích của Mỹ ngoài biên giới nói chung và ở châu Á nói riêng còn quá nhỏ bé so với các nước ở lục địa già. Những nhà hoạch địch chiến lược toàn cầu của Mỹ rất cần một chỗ trú chân, dù nhỏ, ở châu Á để tạo ra vết dầu loang quân sự khắp Thái Bình Dương.
Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, người Mỹ đã “liệu cơm gắp mắm”, “biết mình biết ta”, chọn Việt Nam, một đất nước nhỏ bé, còn quá lạc hậu về kinh tế, nhưng lại tiềm năng một ví trí chiến lược trong khu vực Đông Á- Thái Bình Dương để kết nối bang giao. Nếu thành công, Việt Nam chính là một trong những trạm quá cảnh cho “con đường tơ lụa” chính trị của nước Mỹ thiết lập từ Tây sang Đông. Nếu thành công, triết lý “cây gậy và củ cà rốt” của người Mỹ chắc chắn sẽ lấn sân chủ nghĩa thực dân cũ đã lỗi thời của các cường quốc lục địa già đang thực thi ở châu Á.
Du khách nước ngoài đến Nha Trang |
Bốn mươi tám tháng, hai lần vượt biển, về không
Trong tình thế trước sau cũng phải ký kết Hiệp ước Giáp Tuất (15 tháng 3 năm 1874) , hiệp ước buộc Việt Nam phải nhân nhượng nhiều lợi ích quốc gia với quân Pháp, ngay từ năm 1873, vua Tự Đức đã toan tính tìm kiếm một quốc gia hùng mạnh làm đối trọng với Pháp để hòa hoãn nguy cơ mất nước đang cận kề. Không thể kết nối bang giao với Tây Âu vì các nước này cùng hội cùng thuyền với Pháp. Càng không thể trông cậy vào triều đình Mãn Thanh, người hàng xóm suốt mấy nghàn năm chỉ luôn lăm le ăn tươi nuốt sống những láng giềng nhỏ bé. Hoa Kỳ, chính là quốc gia được Tự Đức lựa chọn.
Chọn Hoa Kỳ, đương nhiên, Tự Đức vẫn nhớ sự kiện của gần 10 năm trước. Ông muốn gầy dựng lại cơ hội bang giao với Mỹ mà chính ông đã bỏ lỡ. Bùi Viện (1839 – 1878) được triều Nguyễn lựa chọn làm sứ thần sang Mỹ. Tuy tuổi đời còn rất trẻ, nhưng Bùi Viện được xem như một nhà ngoại giao tài năng, có tư tưởng tiến bộ, hướng ngoại. Ông còn là vị quan có tầm nhìn chiến lược về việc phát triển kinh tế biển, chủ động phòng vệ lãnh hải quốc gia. Ông là người tham mưu với triều đình Huế đầu tư, xây dựng thương cảng Hải Phòng. Ông là người trực tiếp thành lập và huấn luyên lực lượng “Tuần dương hạm” (tương tự lực lượng hải quân ngày nay) gồm 200 chiến thuyền và 2000 lính thủy…
Tháng 8 năm 1873, Bùi Viện xuất hành từ Huế. Sau hai tháng vượt biển, ghé Hương Cảng tìm manh mối cho hành trình sang Mỹ thuận lợi. Tại Hương Cảng, ông kết thân với viên lãnh sự quán Hoa Kỳ, người Mỹ, gốc Hoa. Có bức thư tay của viên lãnh sự quán, Bùi Viện đến Ykohama – Nhật Bản, đáp tàu thủy thẳng tới nước Mỹ. Sau một năm quan hệ, giao tiếp, vận động hành lang trên nước Mỹ, Bùi Viện mới tiếp cận được tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ1868 – 1876). Lúc này, Mỹ đang hục hặc với pháp trên lãnh thổ Mexico, nên khả năng Mỹ sẽ cố lãng quên việc bị bẽ mặt mười năm trước ở nước Nam để chắp nối lại ý tưởng bang giao với người Việt là có thể. Tiếc thay, Bùi Viện lại không sẵn trong tay quốc thư của Tự Đức, mà ở nước Mỹ thì dù là tổng thống cũng không bao giờ dám có hành vi trái luật. Không thể có cam kết chính thức bằng văn bản thì mọi lời hứa xã giao đương nhiên không cánh cũng bay.
Năm 1875, Bùi Viện lại lên đường sang Mỹ cùng quốc thư của Tự Đức và vận mệnh của giang sơn giao phó. Lần này ông đã thông thạo các ngả đường vào Nhà Trắng. Tuy vậy, con tạo xoay vần, thế thời đã đổi. Mỹ và Pháp đã thỏa thuận ăn chia ở một số nước châu Mỹ, những bất đồng giữa Hoa Kỳ và đa số cường quốc ở lục địa già nói chung đang được dàn xếp, thương lượng. Vì vậy, Mỹ chưa thể đánh mất cái đã có sẵn trong tay. Bùi Viện đành tay không trở về. Mới hay, “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Thiếu đi một thứ, ắt là chẳng xong”!
Nửa thế kỷ gây thù, mấy chục năm giải hận
Từ thất bại của Bùi Viện, trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, các sỹ phu yêu nước đầu thể kỷ 20 nhận ra khả năng kết nối bang giao với Mỹ nói riêng và phương Tây nói chung để có điều kiện thuận lợi giành lại độc lập cho nước nhà là không thể. Có lẽ vì thế mà phong trào Đông Du được khởi xướng. Ngày 20 tháng giêng năm Ất Tỵ (1905), hành trình của Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ từ Hải Phòng, qua Hương Cảng, Thượng Hải, đến Ykohama đã nhen nhóm cho đất nước những phong trào yêu nước như Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục. Nhưng có lẽ đặt kỳ vọng vào Nhật Bản lúc bấy giờ là không đúng lúc. Nhật Bản vừa thắng Nga và rất hùng mạnh, nhưng khác với Mỹ, lãnh thổ Nhật trên Thái Bình Dương, ở ngay Đông Á, không nhất thiết phải cần một quốc gia trung gian để hỗ trợ vai trò bá chủ khu vực này. Thành thử những chính trị gia cận đại Việt Nam lại hướng về Hoa Kỳ mà Ngô Đình Diệm là một ví dụ. Ngô Đình Diệm vừa là nhân chứng lịch sử tiêu biểu cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và gia đình độc trị vừa là nạn nhân của sai lầm chính trị lớn nhất của Mỹ dẫn đến chủ trương “thay ngựa giữa dòng”, gây ra thảm cảnh cho gia đình họ Ngô năm 1963.
Trước Ngô Đình Diệm 40 năm, Nguyễn Tất Thành cũng đã ở Mỹ 2 năm (1912-1913). Năm 1946, với cương vị là Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ chủ tịch đã viết thư cho tổng thống Harry Truman, mong muốn có quan hệ hợp tác với Mỹ. Nói như tổng thống Barack Obama, trong buổi tiếp kiến chủ tịch nước Trương Tấn Sang ngày 25 tháng 7 năm 2013 : “Hồ Chí Minh thực sự có cảm hứng nhờ Tuyên ngôn và Hiến pháp Hoa Kỳ và những lời nói của Thomas Jefferson”. Tuy nhiên, cục diện châu Á và thế giới thập kỷ 1940 và thập kỷ 1950 đã đưa đẩy đường lối ngoại giao của Mỹ phục vụ cho những toan tính khác. Mỹ đã ra mặt tiếp tay cho Pháp bằng sự hiện diện của khí tài Mỹ trên cứ điểm Điện Biên Phủ năm 1954. Đến khi Hiệp định Geneve được ký kết thì con đường tiếp cận Đông Á của Mỹ đã rẽ sang hướng khác.
Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995, đã có những tín hiệu và hành động hòa giải đáng kể của hai nước cựu thù Mỹ - Việt. Nhưng quả thực hai bên mới chỉ có những động thái ve vuốt, làm lành chứ chưa có bước đi đột phá nào đáng kể, chứng tỏ một kết cục xứng tầm với duyên nợ giữa hai quốc gia mà ý tưởng bang giao đã xuất hiện qua ba thế kỷ, cách nay 160 năm.
Ngày 25 tháng 7 năm 2013, thông cáo chung Mỹ - Việt “…Quyết định xác lập quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam – hoa Kỳ…Cam kết hoàn tất Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào cuối năm nay…”. Hy vọng sau bước đi quan trọng này, Mỹ và Việt Nam sẽ hóa giải được những vấn đề nhạy cảm hiện đang còn là rào cản lớn.
Cuối tháng 4 năm 2014, tổng thống Obama thăm chính thức 4 nước (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philipine, Malaysia), mặc định chiến lược xoay trục hướng về bán cầu Đông và khẳng định vai trò, cam kết của nước Mỹ với đồng minh ở biển Đông và Đông Á, bật đèn xanh để ký kết TPP. Việt Nam không có trong lộ trình của tổng thống Mỹ lần này, chứng tỏ tín hiệu về TPP giữa 2 nước vẫn còn ở chế độ đèn vàng ! Có lẽ, những thỏa thuận về chính trị, kinh tế..., giữa quốc gia Việt – Mỹ, chưa thỏa mãn chân lý muôn đời của bang giao : Hai bên cùng có lợi.
Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam lưu hành bài hát có cái tên là lạ quen quen, “Tình cho không biếu không”, nhạc Pháp, mà đến bây giờ rất nhiều người vẫn thuộc lời. Nhưng đó là ngôn ngữ, ký tự của trái tim đôi lứa.
Vì tình yêu lứa đôi là trường hợp ngoại lệ của loài người. Chính trị, kinh tế..., trên bàn ngoại giao giữa hai quốc gia nào cũng vậy, không bao giờ có chuyện một bên “cho không, biếu không” nhau cái gì !
SÀI GÒN 2014 – N.Q.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét