Ngô Quốc Túy
Mùa
thu Giáp Ngọ (22/9/2014), Hàn Mạc Tử vừa tròn một trăm lẻ hai tuổi. Con người ấy
có mặt ở trần gian đã hơn một trăm năm nay nhưng chỉ ở cõi người có hai tám mùa
thu chẵn. Chỉ có hai tám năm dính líu kiếp người mà thi sĩ họ Hàn đã để cho hậu
thế biết bao phân vân, vui buồn về đời về đạo, biết bao trăn trở huyền bí về
văn chương, biết bao nghi án về tình ái…Sau khi chết, phần hồn lại bị người đời
chia xuống hai nấm mộ, một ở Qui Hòa, một ở Qui Nhơn, lại thêm dấu hỏi giành giật lòng ngưỡng mộ của những kẻ hậu bối say mê
thám hiểm cuộc đời ông, thơ ông. Bảy mươi hai năm rồi mà nhiều mật mã về Hàn
thi nhân vẫn chưa giải được.
Năm 1987, khi còn sống, Chế Lan Viên đã từng nổi
giận với một nhà báo Hà Nội đã “viết bậy” về Hàn Mặc Tử trong loạt bài phóng sự
về trại phong Quy Hòa. Gần đây, lại có nhà báo Sài Gòn viết bậy hơn, viết thế
này: “Giờ đây Hàn Mặc Tử nằm yên nghỉ ở chân núi Ghềnh Ráng, nơi mà trước khi
chết, anh thường cùng chị Mộng Cầm ra
đây ngắm biển, ngắm trăng và làm thi ca. Thể theo nguyện vọng của anh, người
thân và bạn bè anh xây cho anh ngôi mộ, đầu gối lên núi, chân đạp xuống biển
Đông để mãi mãi anh được nghe giai điệu ngày đêm vỗ sóng rì rào!”
Có đúng vậy không?
Xin nói ngay, đó là sự bịa đặt ngây
thơ, non tay, thua xa tiểu thuyết võ hiệp của ngũ đại gia nước Tàu.
Hàn Mặc Tử thọ bệnh ở Trại phong Quy
Hòa từ ngày 20 tháng 9 năm 1940 và mất lúc rạng sáng ngày 11 tháng 11 cùng năm ấy.
Trong thời gian này chỉ có nữ tu sĩ Juet- ta, xơ Jlien- ne và hai người bạn
trai cùng cảnh ngộ mới quen thân là anh Nguyễn Văn Xê và anh Phạm Văn Trung gần gũi, chăm sóc Hàn Mặc Tử.
Không có “chị Mộng Cầm” nào đến đây cả. Vì ngay sau khi biết Hàn lâm bệnh trọng,
Mộng Cầm đã vội vã lấy chồng, yên bề gia thất. Không thể kết tội những toan
tính đời thường của người con gái. Họ có quyền mưu cầu hạnh phúc hợp với lẽ sống
của riêng mình. Nhưng cũng xin đừng xào xáo vẽ vời sự thật đau lòng thành hình
tượng lãng mạn dối trá, phê thuốc nghề làm văn viết báo.
Biết mình lâm bệnh hiểm nghèo, Hàn Mặc Tử
giấu biệt cả với những người bạn tri âm như Quách Tấn, Trần Thanh Địch, từ chối
sự chăm sóc gần gủi của người thân trong gia đình. Hàn Mặc Tử chủ trương tận hưởng
cảm giác đau đớn, mong manh của thể xác, chủ trương trải nghiệm tận cùng niềm
hoan lại cô độc của linh hồn. Ngoài bệnh phong Hàn Mặc Tử còn mắc thêm chứng kiết
lỵ nên kiệt sức, chân mỏi, gối run, đi lại phải có người dìu, ăn uống phải có
người đút thì làm sao “cùng chị Mộng Cầm” ra tới chân cát núi Ghềnh Ráng ngắm
biển, ngắm trăng, làm thơ được? Nhà báo ấy đã cố đẽo những chiếc nạng khập khiễng
cho đôi chân ái tình đã tàn phế!
Lưu bút cuối
cùng của Hàn Mặc Tử là bài thơ văn xuôi
“Sự trong sạch của tâm hồn viết bằng tiếng Pháp (Lapurett de I’ame). Tuyệt
nhiên không có chúc thư. Hàn Mặc Tử là con người hào hoa lịch thiệp nhưng bình
dị khiêm nhường, tài năng như ngọc trai đáy bể, đâu biết có ngày sóng dạt lên bờ,
chói sáng. Việc xây cất lăng mộ sau này do hậu thế định đoạt. Bịa gì cũng có thế
tha thứ chứ bịa như nhà báo Sài Gòn ghép cho Hàn Mặc Tử cái nguyện vọng sau khi
chết “ đầu được gối lên núi, chân đạp xuống biền Đông” thì đã hạ bệ nhà thơ yêu
quý của chúng ta bằng những thân xác độc tài muốn bảo tàng lòng tham bằng lăng
mộ, tượng đài vĩnh cửu.
Hàn Mặc Tử có một đời người, đời thơ,
đời tình ái viễn sinh, huyễn hoặc, dễ bị bầu sô nghệ thuật xàng xê cho thêm phần
mùi mẫn trên sân khấu, trong album. Thi vị hóa lịch sử mà không tổn thương đời
thực, có thể chấp nhận được. Nhưng thêm thắt hay bịa đặt như ghép tạng làm biến
đổi gen cốt cách phẩm giá của nhân vật lịch sử thì nhất định phải loại khỏi cuộc
chơi viết lách.
Hàn Mặc Tử sinh ngày 22 hai tháng 9
năm 1912. Tên thật là Nguyễn Trọng Trí, mang họ mẹ, nguyên quán Lệ Mỹ, Đồng Hới
Quảng Bình. Gia đình lập nghiệp ở làng Thanh Tân huyện Phong Điền, Huế. Hàn Mặc
Tử thành danh ở thành phố Quy Nhơn, Bình Định.
Nguyễn Trọng Trí
kí nhiều bút danh. Ban đầu là Lệ Thanh, Phong Trần…sau cùng là Hàn Mặc Tử. Mười
bảy tuổi đã có thơ Đường luật, được Phan Bội Châu khen là tuyệt tác thi ca Việt.
Mười bốn tuổi Hàn Mặc Tử mồ côi cha nhưng được mẹ là con gái ngự y Nguyễn Long
và anh cả là nhà thơ Mộng Châu vỗ về, chăm chút nên học vấn và tài năng sớm nổi
danh. Lỡ chuyến du học Pháp, Tử trở thành công chức Sở đạc điền, sau vào Sài
Gòn làm báo.
Năm 1936 tác phẩm
“ Gái quê” ra đời, cũng là năm thi nhân dưỡng bệnh. Những tác phẩm sau “ Gái
quê” như “ Đau thương”, “ Xuân như ý”, “
Duyên kỳ ngộ”, “ Cẩm Châu Duyên”…đều là những sáng tác lâm sàng cùng Tử bốn năm
cuối đời.
Có một tập thơ của
Hàn Mặc Tử vĩnh viễn không bao giờ xuất hiện ở dương gian, đó là tập “ Thơ Đời”.
Lúc hai mốt giờ ngày 8 tháng 11 năm 1940, Hàn Mặc Tử nhờ anh Nguyễn Văn Xê chuyển
tặng anh Nguyễn Văn Trung tập thơ này. Anh Trung là người bạn ân nghĩa sâu nặng
với Tử, trong những ngày cuối đời ở trại phong Quy Hòa. Tiếc thay, anh Trung là
người ít học, nhà bán tạp hóa, không ai rành văn chương thành thử lúc cần giấy
cuốn thuốc lá, cần giấy gói tiêu, tỏi, hành, ớt…cho khách mua hàng, từng trang
bản thảo “ Thơ Đời” được xé ra, chịu số phận như những tờ giấy lộn!
Những bút tích của
Hàn Mặc Tử chưa bị hủy hoại vương vãi ở Quy Nhơn, Quy Hòa được Quách Tấn gom nhặt,
đem về Nha Trang cùng Chế Lan Viên đánh máy thành từng tập, sau đó in ấn, phát
hành, lưu giữ đến ngày nay. Có lẽ, không bàn thêm hay, dở của văn chương Hàn Mặc
Tử, chỉ mấy câu của Hoài Thanh trong “ Thi nhân Việt Nam” cách đây hơn nửa thế
kỉ, đã đủ: “ Trời đất này là của riêng Hàn Mặc Tử. Ta không hiểu được và chắc
cũng không bao giờ hiểu được. Một tác phẩm như thế…đã ra ngoài vòng nhân gian,
nhân gian không có quyền phán xét”.
Quy Nhơn là thành phố ở cực nam tỉnh
Bình Định, phía trước là biển Làng Mai, phía sau là núi Bà Hỏa, hồ Đèo Son,
phía Bắc là đầm Thị Nại, phía nam là đồi Ghềnh Ráng. Một thành phố mà xung
quanh là biển, núi, hồ, đầm, đồi, ghềnh như thế, chắc chắn ăm ắp gió trăng.
Thành phố gió trăng ấy tuy nhỏ bé mà một thời nổi tiếng thi ca và tình ái. Gió
trăng Quy Nhơn phát tiết, thăng hoa hồn thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan
Viên, Yến Lan…Gió trăng Quy Nhơn xiêu lòng Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu nơi
chân sóng Bãi trứng, Đài Xuân… Không chỉ bây giờ, Quy Nhơn của vương quốc Chăm
ngàn năm thuở trước cũng đã làm biết bao mặc khách, giai nhân say sóng gió
trăng, thi ca và tình ái.
Hàn Mặc Tử có nhiều người yêu trong đời,
người tình trong mộng. Và hình như người yêu, người tình nào cũng sinh hạ cho
thi nhân những đứa con tinh thần bất tử. Năm 1932, sau khi rời trường Pllerin
Huế, Tử làm ở Sở đạc điền Quy Nhơn. Cô hàng xóm Hoàng Cúc nết na, thùy mị, đoan
trang làm chàng trai họ Hàn thương thầm, nhớ trộm mà chẳng dám tỏ tình. Bốn năm
sau, Hoàng Cúc theo cha về Huế, mang theo cả “ vườn hồng sẵn lối” mà Tử vốn bản
tính thuần phác, rụt rè chưa dám bước vào.
Tử không chỉ đau
đớn mà còn nuối tiếc. Nuối tiếc vì lưới tình đã sẵn trong tay, khờ khạo để chim
trời bay mất. Mối tình tuổi hai mươi với Hoàng Cúc trong vắt nhưng sắc nhọn thủy
tinh, cắt vào trái tim chay của Hàn Mặc Tử vết thương không thể nào cầm máu.
Năng lượng sạch của mối tình câm ấy phun trào dòng dung nham tuyệt vọng làm cho
Tử phát cuồng đến mức phải “ bỏ làm thi sĩ”. Người ta ngờ rằng, Hàn bỏ việc ở Sở
đạc điền Quy Nhơn vào Sài Gòn làm báo cũng để lánh xa dư chấn từ cơn động đất
thất tình với người con gái xứ Huế, Hoàng Cúc. Năm 1939, Hoàng Cúc viết thư
thăm Tử. Bức thư muộn từ thôn Vĩ không cứu vãn được mùa trăng Quy Nhơn đã lỡ
thì. Nó mãi mãi là nỗi buồn đẹp khuất sau sương khói, đong đầy kỉ niệm của “
Gái quê”, để muôn thuở lung linh sau khóm trúc đất thần kinh xứ Huế câu hỏi vô
vi của thế kỉ “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”!
Người thứ hai trong đời tình duyên của
Hàn Mặc Tử là Mộng Cầm. Khác với tình câm đầu đời Hoàng Cúc, tình yêu của Tử với
Mộng Cầm đã thành nụ, thành hoa. Nhưng là nụ hoa của loài thạch thảo trên đèo dốc
miền trung, gốc rễ bám hờ vách đá, non nửa mùa khô đã chết. Mối tình Hàn- Mộng
đã từng say đắm như biển với bờ bỗng dưng trở trời gió chướng, xóa sạch lâu đài
cát ái tình. Không biết bao nhiêu huyết
lệ đã ứa ra từ niềm tin mồ côi của Tử, lăn lóc dưới trăng, trong gió nơi xóm Động,
Xóm Tấn của thị tứ Quy Nhơn hắt hiu, nghèo khó bảy nhăm năm trước.
Hàn Mặc Tử đã dồn
nén những khoảnh khắc điên loạn nội cảm vào tập thơ “ Đau thương”. Tập thơ “
Đau thương” còn có tên là “ Thơ điên”. Chữ “ Điên” ấy đã có thời người ta mổ xẻ,
chê bai, xa lánh…Nhưng thời gian đã khỏa lấp hoài nghi, chia sẻ niềm trắc ẩn
vang vọng từ đáy tâm hồn tác giả. Sau này ai đó còn đặt tên cho quãng đường từ
chân Ghềnh Ráng lên mộ Hàn Mạc Tử là dốc Mộng Cầm. Mấy người biết được rằng cái
tên ấy làm sỏi đá cũng buồn đau cho một dốc tình đen bạc!
Mai Đình đến với Hàn Mạc Tử sau Mộng Cầm,
tuy non ái ân nhưng già nhân ngãi. Nó như ánh trăng nửa khuya lặng lẽ bao bọc
giấc mơ muộn khuyết. Mai Đình người Phan Thiết, nơi biển quanh năm lộng gió thổi bờ những khát khao bỏng nắng.
Biết Tử lâm bệnh nặng, nàng chủ động ra Quy Nhơn tìm, gặp. Mặc cảm với số phân,
Tử trốn tránh không tiếp, nàng gửi thơ tỏ lòng: “ Âu yếm say sưa đầy cả mộng.
Xui lòng tơ tưởng lúc đêm thâu.” Xúc động trước tấm tình của Mai Đình, Hàn Mặc
Tử viết bài thơ “ Lưu luyến” gom góp “Những mảnh nhạc vàng rơi lả tả. Những niềm
run rẩy của đêm yêu” để hồi âm nàng.
Từ mùa hè năm 1937, Hàn Mặc Tử tuyệt giao với
bạn bè, muốn một mình trải nghiệm nỗi bất hạnh. Nhưng cốt cách của người đàn
ông hào hoa đa tình như Tử ở đâu cũng tạo ra những trường ion dương cuốn hút thế
giới đàn bà. Đêm đêm, những thôn nữ xóm Động phía Tây thành phố Qui Nhơn vẫn
lén lút rình nghe thơ Tử, âm thầm chăm sóc Tử khi mớ rau, lúc con cá…Cái mà Hàn
Mặc Tử yêu nhất trong vũ trụ là Trăng. Cái mà hàn Mặc Tử yêu nhất trên trần
gian là Đàn Bà. Trăng và đàn bà làm cho thơ Tử hay mãi. Tử ngắm trăng, vịnh
trăng, ăn trăng và còn “ mặc vải trăng”…
Nhưng Vũ trụ
cũng không cưu mang, sẻ chia hết cõi hoang vắng cô đơn nơi trần thế. Thương bạn,
năm 1938, Bích Khê gửi cho Tử tấm ảnh bán thân của Ngọc Sương, ngụ ý mai mối
cho cuộc tình nhiều trắc trở. Ngọc Sương cũng là bạn Bích Khê. Từ lâu, Ngọc
Sương đã thương thầm nhớ trộm Hàn Mặc Tử. Mối tình Hàn- Ngọc giao thoa sinh nở
thêm “ Người Ngọc” trong bầy đàn của tập “ Thơ Điên”, một bài thơ làm cho những
người tỉnh nhất cũng phải mềm lòng mà tận hưởng từng câu, từng chữ: “ Ta đề chữ
Ngọc lên tàu lá. Sương ở cung thềm giọt chẳng thôi.”. Những câu thơ điên ấy hiếm
lắm, quý lắm!
Hình như trữ lượng tình ái và thơ ca không hề
vơi cạn trong trái tim kiệt sức, cạn máu của Hàn Mặc Tử. Năm 1940, Thương
Thương, một nữ sinh Huế đem đến cho Tử nguồn sống, nguồn thơ bất tuyệt. Cô gái
mười sáu tuổi như dòng suối đầu nguồn trong trẻo, thơm tho, tinh khiết làm vơi
nhẹ đau thương phần xác, phần hồn của Tử. Cuộc tình cuối cùng này đã thụ thai
thành “ Cẩm Châu Duyên”, “ Quần Tiên Hội”…Những tác phẩm mà ngày nay vẫn nhấp
nháy ánh sáng lạ như những vì sao xa, ngoài thái dương hệ làm cho những người
yêu thơ Hàn Mặc Tử mãi viễn vọng một cảm xúc thiên thu vời vợi.
Tạp chí “ Người
mới” Sài Gòn ra ngày 23 tháng 11 năm 1940 đã dành riêng số đặc biệt thay độc giả
điếu văn tiễn đưa Hàn Mặc Tử. Trong thành tựu văn chương của Chế Lan Viên có lời
tiên tri sáng giá: “ Mai kia cái bình thường mực thước kia sẽ biến tan đi và
còn lại ở đời này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử”.
Trong Bách Khoa toàn thư văn chương thế giới thế kỉ
hai mươi, Hàn Mặc Tử là số ít nhà thơ Châu Á được vinh danh. Một người mười bảy
tuổi xuất khẩu Đường thi được như bài “ Cửa sổ đêm khuya”, đọc xuôi, đọc ngược,
bỏ hai chữ đầu đọc xuôi, ngược, bỏ hai chữ cuối đọc ngược, xuôi vẫn không thất
vần thất vận, vẫn hay. Một bút thơ nuy vũ trụ hơn cả hình họa: “ Ô kìa, bóng
nguyệt trần truồng tắm. Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”. Một cảm xúc thi ca
bình dị mà dài xa như mây gió “ Mơ khách đường xa khách đường xa. Áo em trắng
quá nhìn không ra…”
Đến nay, sau bảy mươi hai năm đã mất,
không chỉ sự nghiệp thơ ca, cuộc đời tình ái, người ta còn phân vân cả nơi yên
nghỉ của thi nhân. Nhà văn Quách Tấn nói rằng năm 1959, ông và gia đình cải
táng phần mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa mang về Quy Nhơn và sau đó xây cất kiên cố,
hiện diện như ở đồi Ghềnh Ráng bây giờ. Còn những người ở Quy Hòa lại khẳng định,
gia đình Hàn Mặc Tử cải táng nhầm. Phần mộ ở chân núi Xuân Vân làng biển Quy
Hòa do ông bà Trần Thiện Thanh xây cất mới là ngôi mộ có hài cốt thực của Hàn Mặc
Tử.
Nguyên do thế này. Phía đông trại phong Quy Hòa,
gần Hòn Khô có một nghĩa trang dành riêng cho bệnh nhân phong. Sau khi mất, Hàn
Mặc Tử cũng được chôn ở đó. Đây là nghĩa trang cát sát biển nên bể dâu biến đổi
là điều không tránh khỏi.
Vậy, Quy Hòa, Quy Nhơn, đâu là nơi
chính danh yên nghỉ của Hàn Thi Nhân ? Sau bao nhiêu năm tranh cãi, có lẽ bây
giờ cũng nên dừng lại. Dừng lại, mượn câu sấm của Hoài Thanh trong “Thi Nhân Việt
Nam” để tuyên án rằng: Cũng như thi ca và ái tình, hồn cốt Hàn Mặc Tử “đã ra
ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phán xét”!
Sài Gòn giữa thu 2014 - Ngô Quốc Túy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét