NGÔ QUỐC TÚY
Con người đã để lại trên đường tiến hóa dấu ấn của rất nhiều nghề
nghiệp khác nhau. Có những nghề cao sang, danh giá, bao la tiền bạc, bát ngát
tiếng thơm. Có những nghề bình dị, chỉ với mục đích mưu sinh đủ ăn, đủ mặc, trọn
kiếp dân thường . Có những nghề mãi còn muôn thuở. Nhưng cũng có những nghề thời
gian mai một, đã và đang chìm dần vào dĩ vãng !
Người Việt Nam mình có
câu “ Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, hay nôm na “Một nghề thì sống, đống nghề
thì chết”. Nhưng đôi khi trong thực tế cuộc sống, điều đó chưa hẳn đã đúng. Bởi
vậy, phẩm chất “con dao pha”, “đa năng”, “đa tài”…, trong hoàn cảnh nào đó,
cũng vẫn được xã hội đề cao, trân trọng. Dù một hay nhiều nghề, thì sự cần kiệm,
khéo léo, say mê, sáng tạo, trung thực…, vẫn luôn là thuộc tính nghề nghiệp mà
thế hệ nào, thời đại cũng cần phải kế thừa.
Gánh nghề rong ruổi đường
quê
Những
dấu chân nghề nghiệp trên đường làng ngõ xóm của thế kỷ trước để lại hình bóng
trong ký ức con người, có lúc thật nhọc nhằn, lẻ loi, heo hút, nhưng cũng có
lúc cũng nhẹ nhàng, phiêu đãng, đắc chí đến không ngờ. Có những nghề hầu như
không còn ai nhớ nữa, như nghề đóng cối xay, thả cá giống, bật bông, lông gà
lông vịt, mài dao, bơm quẹt ga, múa võ bán thuốc…
Gánh
nghề trên vai, như gánh cả duyên nợ đời mình, gánh cả mọi trăn trở lo toan cho cuộc
sống gia đình. Những “nghệ nhân” bộ hành ngày ấy đã trải nghiệm qua biết bao
nhiêu ki-lô-mét lộ trình buồn vui cùng cộng đồng làng xã, khiến bất cứ ai trót
nuông chiều quá khứ quê mình chẳng bao giờ lãng quên được.
Nghề
hàn nồi thường lồng ghép với nghề đồng nát. Đó là một trong những nghề có tuổi
nghìn năm. Hàn nồi, không chỉ hàn nồi mà còn hàn xoong, chảo, thùng, xô, chậu…,
hàn mọi thứ đồ dùng bằng kim loại. Đồ dùng bằng kim loại phổ biến nhất ở Việt
Nam nửa thế kỷ trước là đồng thau. Trong nhà có vài chiếc mâm, nồi, chậu, ống
nhổ…, bằng đồng đã là sang lắm. Những vật dụng bằng đồng ấy, thường là loại tài
sản quí, được thừa kế từ đời này qua đời khác. Bởi vậy, khi chúng mòn, thủng,
không có tiền mua đồ mới người ta buộc phải hàn. Thợ hàn ngày ấy hầu hết là thợ
hàn sống, hàn gò. Chưa có hàn điện. Khi hàn nhôm, hàn nhiệt, người ta sử dụng mỏ
hàn bằng thỏi đồng đặc nung đỏ, đủ độ nóng chảy kẽm để bịt kín mối hàn. Nhưng do kẽm không chịu
được nhiệt cao nên buộc phải hàn sống những đồ dùng tiếp xúc trực tiếp với lửa.
Có lẽ hàn sống là một trong những kỹ nghệ độc đáo nhất của con người. Chỗ cần
hàn, tùy theo lỗ thủng, được khoét tròn, rộng tối thiểu bằng trôn chén, tỉa
chân rết quanh bờ. Miếng hàn cũng cắt tỉa chân rết sao cho khớp với chân rết
quanh bờ lỗ hàn. Sau khi ráp xong, gấp chân rết vào trong, ra ngoài như lợp
ngói âm dương, dùng búa và đe, be, dập, gõ như thể thôi miên, cho đến khi mối hàn vừa
khít, kín, đổ nước ngâm, không thấy nước rỉ ra. Từng thao tác phải thật tỉ mỉ,
chính xác, khéo léo. Thông thường, người sáng dạ, phải học từ 1 năm trở lên mới
hành nghề được. Thợ hàn nồi thường là dân chuyên nghiệp. Quanh năm “ngao du” hết
làng này sang làng khác. Trên vai quẩy đôi thúng lớn đựng đồ nghề, vật liệu hàn,
cơm nắm, cút rượu…, và cả những thứ đồng nát không thể sửa chữa, mua của chủ
nhà, vừa đi vừa rao “Đồng nát đâ…ây… ây… ây”. Tháng ba ngày tám, thợ hàn nồi
thường sẵn việc. Đó là lúc nông nhàn, rỗi rãi để lục lọi nồi niêu, xoong, chảo…,
hư hỏng nơi góc buồng, xó bếp đem ra hàn vá. Người xưa đúc nồi đồng thành 7 loại
: nồi hai, nồi ba, nồi tư, nồi năm, nồi sáu, dùng để nấu nướng cho bữa ăn hàng
ngày; nồi tám, nồi mười, nồi mười hai, nồi ba mươi dùng trong dịp giỗ, tết, ma
chay, cưới hỏi để thổi cơm, luộc thịt, nấu bánh chưng… Cho đến những năm của thập
kỷ 80, khi thợ hàn mỏi cẳng, rát họng đầu làng cuối xóm vẫn không kiếm được mối
nào thì nhiều kẻ rục rịch bỏ nghề. Có người cố bám nghề nơi ngã ba đường hay
ngõ chợ huyện. Nhưng rồi, những hình bóng vất vưởng, lẻ loi ấy cũng ngày một còm
cõi, mờ xa, mất hút !
Lông nhông heo trước, người
sau
Nghề
thả heo nọc (còn gọi là nghề lợn rẻo) mất dấu ở nhiều vùng miền cách nay vài ba
mươi năm, khi mà công nghệ thụ tinh nhân tạo lên ngôi. Thời trước, hầu như gia
đình nào ở nông thôn cũng nuôi lợn nái (còn gọi lợn sề). Nuôi lợn sề như thể
hình thức tiết kiệm bỏ ống. Cơm thừa, nước gạo, cám, bèo…, gom góp hàng ngày, cứ
nửa năm lại có món tiền ra tấm ra miếng. Lợn sề dễ cho ăn, lại ít bệnh. Thức ăn
cho lợn mẹ, chỉ cần bèo cái sống giã nhuyễn, trộn cám với nước vo gạo. Mỗi năm
lợn sề đẻ hai lứa, mỗi lứa trên dưới 10 con. Muốn có lứa lợn con tốt, bán được
giá, lợn mẹ lợn bố giống phải tốt. Người hành nghề thả heo nọc có bí kíp gia
truyền, không phải dễ học đòi. Quan trọng nhất là khâu chọn giống. Chọn giống heo
nọc khó hơn chọn giống heo nái. Một con
heo nọc chuẩn phải đủ điều kiện : Đòn dài, vai nở, ngực rộng, bụng thon, móng
khít, “súng” đẹp và cân đối. Để tránh hiện tượng “cận huyết”, ảnh hưởng đến chất
lượng heo con, người ta không cho heo nọc phối giống heo nái cùng làng xã.
Chăm
sóc heo nọc, công phu nhất là khâu tập thể dục hàng ngày để chúng không bị béo
phì. Cho heo nọc cuốc bộ trên đường đi, về phối giống từ xã này qua xã khác
cách nhau ba bốn ki lô mét là cách thể thao tốt nhất. Ngoài ra, còn phải luyện
các chiêu “tán tỉnh” phối giống cho heo nọc để chúng “thuộc bài” chinh phục những
con heo nái khó tính hoặc mới “động phòng” lần đầu. “Thực phẩm chức năng” của
heo nọc là trứng gà sống và bắp non nấu mật mía. Để đảm bảo tuổi thọ và chất lượng
tinh trùng heo nọc đủ 7 tháng tuổi thì mới được cho phối giống, tuần 1 lần, từ
1 năm tuổi trở lên, tuần 2 lần. Mỗi lần phối giống, heo nọc phóng ra khoảng 200
cc tinh dịch với hàng chục triệu con tinh trùng. Nếu chia số tinh trùng ấy ra,
đủ cho 6 heo nái cùng lúc thụ thai. Bởi vậy, thụ tinh nhân tạo, tiết kiệm tinh
trùng hơn rất nhiều. Nghề nuôi heo nọc cũng cần kinh nghiệm về chu kỳ và hiện
tượng động đực của heo nái. Vì chỉ khi động đực cao trào, heo nái mới “chịu
đèn”. Khi động đực, “hoa” heo nái sưng
to, đỏ hồng, chảy nước nhờn. Thời gian rụng
trứng, “chịu đèn” của heo nái chỉ kéo dài 2 ngày. Nếu phối giống sớm hoặc muộn
vừa không thể thụ thai, vừa có thể xảy ra khả năng heo nái không “chịu đực”.
Khi bị heo nái từ chối giao hợp, heo nọc rất dễ “nổi điên”, tấn công bất cứ người
nào gần nó. Đã có nhiều người bị heo nọc cắn, gây thương tích nặng ở đùi, tay,
bộ hạ…Bởi vậy, muốn chắc ăn, chủ heo nọc phải thăm heo nái trước. Thông thường phải
phủ nọc 2 lần liên tiếp, mới đảm bảo kết quả thụ thai cho heo nái. Những cuộc
“mây mưa” của loài heo cũng tuân theo qui luật “trâu tìm cọc”, nghĩa là heo nái
chỉ chấp nhận cho heo nọc “làm tình” khi heo nọc chủ động tìm đến nó, trong chuồng
của nó. Thụ tinh nhân tạo tuy rẻ hơn, nhưng chất lượng heo con không bằng thụ
tinh tự nhiên. Nhiều nghiên cứu khoa học đã lý giải rằng : Thụ tinh tự nhiên, cả
heo đực và heo cái cùng được “cảm nhận” quá trình “khởi động” bằng da bằng thịt
trước lúc “xung trận” nên kích hoạt nội tiết tố đạt đỉnh “thăng hoa”…Hiện nay,
một số trang trại heo giống ở Đồng Nai, Bình Dương vẫn duy trì phương pháp thụ
tinh tự nhiên cho heo nái. Nhưng hành trình ít ỏi của các chú heo nọc ấy đã được
cơ giới hóa. Cảnh tượng những người cầm roi tre rong ruổi cùng những chú lợn rẻo
lông nhông, hừng hực “xuân thì”, băng qua cánh đồng, bờ đê từ bình minh đến xế
chiều, quanh năm suốt tháng để “nhân bản” dòng họ nhà “Trư”, bây giờ không còn
nữa!
Nghề rèn, luyện sắt nên
kim
Không
ai rõ nghề rèn ở Việt Nam có từ bao giờ, nhưng chắc chắn đó là một trong những
nghề cao niên nhất ở đất nước này. Nghề rèn truyền thống thời hoàng kim phủ kín
lãnh thổ hình chữ S. Từ nông thôn đến thị thành, từ miền núi đến hải đảo, vùng
miền nào cũng hiện diện tổ đình linh thiêng của nghề rèn.
Phố
cổ Lò Rèn – Hà Nội hiện nay, trước năm 1943, có tên là phố Hàng Bừa. Phố Hàng Bừa
chỉ dài khoảng ba bốn chục mét nhưng đã trở thành biểu tượng của nghề rèn
phương Bắc. Những cư dân của phố Hàng Bừa xa xưa đến từ những làng rèn nổi tiếng
ở Hà Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Từ Liêm. Quanh năm phố Hàng Bừa đỏ lửa, phập phồng
ống bễ, chan chát tiếng búa nhịp một, nhịp hai, nhịp ba. Phố rèn Hàng Bừa chuyên
sản xuất lưỡi cày, răng bừa, liềm, cuốc, dao, kéo…, cung cấp cho các tỉnh lân cận
Xứ Đoài, trấn Sơn Nam, Kinh Bắc. Người Pháp cũng phải nể phục kỹ thuật rèn thủ
công của các thợ rèn Hàng Bừa nên đặt họ sản xuất các mặt hàng cơ khí mà người
pháp rất cần cho các công trình xây dựng như bu loong, bản lề, cửa sắt…Sang thế
kỷ 21, ở đây chỉ còn 2 lò rèn thường xuyên đỏ lửa, một của ông Nguyễn Phương
Hùng, một của ông Nguyễn Thế Lai. Không chỉ vì mưu sinh, ông Lai, ông Hùng vẫn
cố giữ lấy cái nghề chân truyền của dòng tộc. Báo New York Time đã có một bài
phóng sự về phố Lò Rèn như một phiên bản “Thăng Long hoài cổ” của Bà Huyện
Thanh Quan thời hiện đại.
Từ thế kỷ 15, thôn Hiền Lương, xã Phong Hiền,
huyện Phong Điền – Huế, nhộn nhịp như một công xưởng rèn, đúc. Làng rèn Hiền
Lương không chỉ sản xuất những vật dụng gia đình, công cụ nhà nông mà còn sản
xuất vũ khí cho các triều đại nhà Nguyễn từ lúc chúa Tiên Nguyễn Hoàng khởi
nghiệp. Những lò rèn còn lại ở Hiền Lương vẫn duy trì bễ thổi, nhịp đe, tôi nước,
lò đất…, như 400 năm thuở trước . Bởi vậy, sản phẩm từ lò rèn Hiền Lương vẫn cứng
cáp, sắc bén, già dặn và có độ bền đặc biệt. Nhiều người đã bỏ nghề nhưng vẫn
thành tâm trong ngày giỗ tổ đình nghề rèn như nghĩa cử tri ân với người đã khai
sáng nghề rèn, đem lại phước lành cho một vùng đất.
Ở
Nam Bộ, nghề rèn xôm tụ nhất hiện nay phải kể đến địa danh Nhị Quí, huyện Cai Lậy,
tỉnh Tiền Giang. Hiện ở đây chỉ còn 13 lò rèn, chủ yếu các lò rèn này của dòng
họ Võ. Ở xã Nhị Quí, cụ Ba Viên là người hành nghề rèn đầu tiên đến đây lập
nghiệp, đầu thế kỷ 19. Ông Võ Văn Hai, người đang sở hữu 10 lò rèn ở ấp Quí
Chánh là thế hệ thứ 5 của dòng họ Võ trên đất Nhị Quí. Chuỗi đô thị Sài Gòn –
Chợ Lớn – Gia Định xưa kia có hàng trăm lò rèn. Bây giờ thành phố này chỉ còn
dăm sáu cái lò rèn, hoạt động èo uột qua ngày. Tuy vậy, lò rèn của cặp vợ chồng
ông Lê Văn Chân và bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt bên hông chợ Nhật Tảo phường 4, quận
10 vẫn được bà con lối phố yêu mến đặt cho biệt danh là “Ông Cắc, Bà Cụp”. Bởi
đôi vợ chồng này cũng là đôi tay búa nhịp 2 “cắc”, “cụp” trên đe nhịp nhàng suốt
mấy chục năm hạnh phúc bên nhau.
Lão
nghệ nhân Nguyễn Chất ở làng rèn Hiền Lương – Huế, năm nay đã gần tám mươi, vẫn
nặng tình với nghề rèn. Ông thường nói với con cháu : Nghề rèn không chỉ cho ta
miếng manh áo mà còn tôi rèn cho con người ý chí, bản lĩnh, sức bền, luyện sắt
nên kim !
Vàng son một thuở
Những
thế kỷ trước, sửa chữa đồng hồ là một trong những nghề sang trọng bậc nhất. Những
chiếc đồng hồ đầu tiên trên thế giới có từ thế kỷ 16, nhưng phải đến nửa cuối
thế kỷ 19, đồng hồ mới hiện diện ở Việt Nam. Thời ấy, người sở hữu một chiếc đồng
hồ thường là người giàu có và quyền lực. Đầu tiên là những chiếc đồng hồ quả
quít có dây đeo ở cổ. Đồng hồ quả quít
có nắp, vỏ bằng đồng thau màu bạc trắng, hoặc nạm vàng, trạm trổ hoa văn, tạo
hình bông hồng, thuyền buồm, cánh bướm, song mã hoặc mặt cú mèo. Chiếc đồng hồ
quả quít sản xuất năm 1898 của hãng Patex Philippe – Thụy sĩ vừa được bán tại
nhà đấu giá Christies – New York với mức 2,25 triệu USD ( tương đương 48 tỷ đồng
). Sau này, đồng hồ đeo tay thay dần đồng hồ quả quít. Phổ biến ở thị trường Việt
Nam cuối thế kỷ 20 là đồng hồ Rolex, Omega, Longines, Rado…, của các nước tư bản,
đồng hồ Poljot của Liên Xô, đồng hồ Con Gà của Trung Quốc. Từ thập kỷ 1970, xuất
hiện loại đồng hồ đeo tay tự động (không phải lên giây cót hàng ngày). Bộ phận
tự động gọi là cánh bướm. Từ đó giá trị của đồng hồ không chỉ phụ thuộc ở vật
liệu hợp kim chế tác ra nó, số lượng “chân kính”, khả năng chống trầy xước, chống
thẩm thấu nước, độ chính xác, mẫu mã đẹp, mà còn ở chế độ tự động.
Thời
ấy, mỗi thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội có cả trăm tiệm sửa chữa đồng hồ, ngự
trên những mặt phố chính. Ở quê, thị trấn, thị tứ nào cũng có ít nhất vài ba tiệm
sửa chữa đồng hồ chiếm vị trí đắc địa. Đồng hồ là tài sản quí nên người ta
không chỉ sửa mà còn định kỳ bảo dưỡng, gọi là lau dầu. Thợ sửa chữa đồng hồ
lúc nào cũng sẵn việc làm, thu nhập rất cao. Chỉ những bệnh nhẹ như chạy nhanh,
hoặc chậm khách mới không phải chờ lâu. Còn như rối dây cót, lệch bánh xe, vênh
kim, lau dầu…, phải gửi đồng hồ ở tiệm hàng tuần mới được nhận về. Thành thử,
thân quen với một thợ sửa chữa đồng hồ nào đó là cực kỳ hãnh diện. Quả thực, đó
là nghề tinh vi, không phải ai cũng học được. Đã vậy, hành nghề này phải là người
“máu lạnh”, thần kinh vững vàng, trí nhớ siêu việt. Hàng chục bộ phận nhỏ xíu
trong một chiếc đồng hồ đeo tay, tháo ra, chỉnh sửa, ráp lại bằng những chiếc
tô-vít, kìm, búa, nhíp…, tí hon, không cẩn thận là công toi. Nhìn những người
thợ sửa đồng hồ đeo kính lúp, áo quần thẳng nếp, ngồi sau tủ kính, trong một
không gian sạch sẽ, dư thừa tiền bạc, lại lắm kẻ xun xoe, cầu cạnh, ai mà không
ngưỡng mộ.
Từ
thập kỷ 1990, khi đồng hồ điện tử đeo tay, để bàn, treo tường chạy pin, ồ ạt
thâm nhập thị trường thì nghề sửa đồng hồ mỗi ngày mai một. Giá thành một chiếc
đồng hồ thông thường vừa để xem giờ, vừa để trang trí, quá rẻ, cấu tạo lại đơn
giản. Người ta chỉ việc định kỳ thay pin. Nếu hỏng, hóc, vứt sọt rác, mua cái
khác. Hiện ở Sài Gòn, thành phố hơn chục triệu dân cũng chỉ còn 7 tiệm sửa chữa
đồng hồ chuyên nghiệp. Hà nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng…càng ít
hơn. Những thợ sửa chữa đồng hồ dòng dõi như bác Thịnh “Gà” ở phố Hàng Gai – Hà
Nội, bác Tuấn ở đường Trần Phú – Nha Trang, bác Duy ở đường Trần Hưng Đạo – Qui
Nhơn, bác Tỷ ở đường Lê Lợi – Sài Gòn…, bây giờ chủ yếu sửa chữa đồng hồ cổ cho
các nhà sưu tập…
Có
lẽ, một vài trăm năm nữa, tiếng chuông đồng hồ trên tháp Big Ben (Chiếc đồng hồ
công cộng lớn nhất thế giới, chế tạo năm 1854), trước cung điện Westnuister của
xứ sở sương mù, sẽ vẫn ngân lên niềm nuối tiếc, biết ơn đối với những người thợ
tài hoa của một thời vàng son đã góp phần quan trọng làm cho những chiếc đồng hồ
của những thế kỷ trước tròn bổn phận đánh dấu thời khắc trong ngày vào cuộc sống
thường nhật của con người !
SÀI
GÒN LẬP THU – N.Q.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét