Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

HOÀNG MAI TRANG


















Nhìn tổ đoán chim, vào nhà đoán chủ. Gia đình chính là nền tảng hình thành bản lĩnh văn hóa của một đất nước. Truyền thống của một gia tộc trong xã hội hiện đại, tuy không phô trương lộ diện, nhưng dòng chảy âm thầm ấy vẫn góp phần quan trọng gìn giữ nhân cách sống và tình yêu quê hương, Tổ Quốc của người Việt hôm nay...


Cha trồng cây, con hái quả


Ông chủ của Hoàng Mai Trang sinh ra, lớn lên và lập nghiệp ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ nhưng lại lấy tên một loài hoa ở miền Nam làm bút hiệu, bút hiệu Hoàng Mai. Đó là một điều lạ.

          Trước ngõ ông xây một cái cổng lớn. Trên mái cổng xây bức cuốn thư có ba chữ “ Hoàng Mai Trang” bằng chữ nho.

          Hoàng Mai Trang không lớn lắm, thổ cư ước chừng vài ba ngàn mét vuông. Giữa thổ cư có hai cái nhà làm bằng gỗ lim, nghiến, dổi, xoan rừng, một cái ba gian, một cái bảy gian, kiến trúc theo lối cổ. Cái ba gian hướng chính tây, lợp ngói mũi, làm nơi thờ cúng. Cái bảy gian, hướng chính nam, lợp rạ, để ở. Hai nhà chung một cái sân gạch, lát toàn gạch thất. Gạch thất nung bằng lửa rơm rạ nên  không bị phồng, cháy, chín đều và chịu lực cao.

          Ao hai bên ngõ. Hai vườn sau, trước. Cây trong vườn đa số đã cổ thụ. Cổ thụ nhất Hoàng Mai Trang là cây nhãn. Gốc cây lớn hơn một sải tay ôm. Xế chiều bóng nhãn phủ rợp sân trước nhà. Mùa bão, tán nhãn như bức bình phong che chắn khi bão đổi gió tây, hướng gió mạnh nhất của một cơn bão nhiệt đới. Cây nhãn do cụ thân sinh ra ông trồng là giống nhãn lồng Hưng Yên. Tuy mang từ Hưng Yên về trồng nhưng nó không bị lai giống vì khác biệt  thổ ngơi như những cây khác trong làng. Đây cũng là điều lạ !
         

Nhãn chín về mùa thu. Để canh lũ dơi đêm phá nhãn, lấy vỏ ốc bươu xâu từng chùm, treo lên cành chỉ thiên, thòng dây xuống đất, giật liên hồi từng đợt như trống cầm canh. Những năm không bão, nhãn sai, hái được ước chừng cả tấn quả. Nhãn Hoàng Mai Trang thường bán “quạ” cả cây cho thương lái ở tận Nam Cao, Vân Trường, Thư Trì đến mua, chỉ để lại vài cành ngang phía Đông. Chỉ vài cành thôi cũng đủ biếu họ hàng và cả nhà ăn đã đời. Ông bảo cành trỏ phía Đông, quả to, hạt nhỏ, cùi dày, mọng nước và ngọt hơn cành khác. Ngày thương lái đến hái nhãn, bọn trẻ trong xóm cởi trần trùng trục xúm quanh gốc nhãn, ngóng những quả rơi, quả rụng. Có đứa nhanh chân, ăn chán còn kiếm được lưng rá nhãn rời. Thương lái hái nhãn xong, mấy ngày sau, lũ con trai choai choai còn đến xin trèo cây, mót lại. Tiền bán nhãn đủ để ông mua quần áo, sách vở cho chín đứa con ông, năm gái, bốn trai suốt năm học. Ông yêu quý cây nhãn một phần vì nó là lộc trời của bố ông để lại, phần nó làm nên vẻ riêng của Hoàng Mai Trang. Từ đường cái vào làng khoảng cây số, đã nhìn thấy rất rõ cây nhãn trong Hoàng Mai Trang, vươn cao hơn cả rặng tre cái, hàng cau già.

Nhãn cổ thụ trong Hoàng Mai Trang không chỉ cho quả ngọt mà còn là sân chim vui hót quanh năm. Sáo sậu, chích chòe, sẻ bông, cu gáy…, về đây cặp đôi, làm tổ, đẻ trứng. Lũ chim ở đây được tự do, an toàn vì sự thân thiện của những người sinh sống trong Hoàng Mai Trang. Mỗi buổi sớm lũ chim thi nhau hót như thể dàn đồng ca đủ giai điệu ngẫu hứng, hòa tấu cùng bình minh đẫy giấc. Đáng yêu nhất là những cái mỏ bé tí xíu của những chú chim non chưa rụng mép, rướn đầu cao qua tổ, miệng há hốc, kêu toáng lên chíp chíp, đòi ăn. Đôi khi, chú chim khách xuất hiện, với cái đuôi loẹt quẹt dài hơn chân, vươn cổ về phía cửa nhà bảy gian hót liên tục mấy hồi liền. Mỗi lần chim khách hót, y như rằng trong Hoàng Mai Trang lại chộn rộn chuẩn bị đón khách thân tình từ xa đến.

          Thổ cư Hoàng Mai Trang có hai vườn chè xanh tuổi cả trăm năm, gốc sù sì, thân mốc trắng. Vườn trước kề ao trước, sát ngõ vào, xen lẫn chanh, ngâu, vải thiều, đu đủ…, dậu dâm bụt bao quanh. Vườn sau giáp ao sau, rộng gấp ba vườn trước, bên dậu ruối, bên dậu mây lẫn tre hóp. Ngoài chè còn có mít, na, bưởi, cam, ổi, nhót, cau, xoan, chuối, vối…, và những cây làm thuốc nam như bạc hà, lốt tía, khổ sâm, hàm ếch, thầu dầu gai, huyết dụ…Quanh năm vườn trước vườn sau, xum xuê lá cành, hoa trái. Chè xanh bánh tẻ hái sáng sớm, hãm trong bình tích hai quai cùng với mấy lát gừng tươi, ủ giỏ bông kín nắp, khoảng nửa giờ, rót ra lưng lửng bát đàn sứ trắng vừa thổi vừa uống, kèm thêm vài củ khoai lang bở luộc, thành bữa dặm lúc xế trưa.
         
Cao sang trong nghèo khó


Hoàng Mai Trang còn có vườn cảnh và non bộ. Chủ nhân là người đam mê cây cảnh và non bộ cũng say sưa như uống trà, uống rượu và làm thơ. Nhưng ông chỉ chơi những loài hoa quí như địa lan, lạp mai, đào thất thốn, trà bát diện… Trên bàn uống trà của ông lúc nào cũng có dăm ba dò địa lan, hoặc tứ quý, hội điểm, mạc lan, hoặc bạch ngọc, hài vệ nữ… Địa lan có sắc đẹp ngắm lâu không chán, hương thơm bất chợt, thanh tao. Những chậu địa lan của ông không thua kém gì những chậu địa lan ở Nghi Tàm, Hà Nội. Nhưng thời ấy, trồng địa lan theo cách tự nhiên cực khó. Địa lan ưa bùn ao phơi nỏ, tưới nước mầu ngâm từ lông gia cầm, gia súc, sinh trưởng trong môi trường bán âm, bán dương, kém chịu hạn nhưng cũng không quen sũng nước. Một chậu địa lan đẹp phải đủ tiêu chuẩn về chồi, ngồng từ mỗi giò, đủ số hoa trên mỗi ngồng, lá trải, mịn, mượt và quan trọng nhất là thần sắc trên từng cánh hoa tươi nhã. Có cả hàng chục loài địa lan, tuy hình hài, màu sắc khác nhau nhưng cùng một phong cách tỏa hương. Ông bảo, địa lan không bao giờ tỏa hương trước kẻ phàm phu tục tử. Đó là loài hoa không ai có thể cưỡng bức thụ hưởng, nó chỉ dâng hiến hương thơm cho người xứng đáng.

Ông chơi cây thế (Bon sai) cũng rất lạ, không thích thế cây có sẵn mà tự mình tạo dáng cho cây. Nhưng cách tạo dáng của ông cũng khác, không uốn, vin cành bằng dây kẽm hay dây thép, không cấy ghép mà chỉ cắt, tỉa để tự nó bật ra thế cây thành dáng trực, dáng huyền, ngũ phúc hay  phụ tử tương thân… một cách tự nhiên. Vườn cảnh Hoàng Mai Trang có những cây bon sai vọng cách, đa lông, song mai…, có một không hai. Cuối thập kỷ 1970, Hoàng Mai Trang còn có cây đào thất thốn nguyên chủng, là một trong ba cây đào thất thốn đẹp nhất nước lúc bấy giờ. Cây đào này trồng trước hiên vọng nguyệt. Hiên vọng nguyệt ở chái nam nhà ba gian, hướng ra cầu ao trước, chia làm ba ô, cùng kiến trúc đặc tả những nửa vầng trăng thành hai hàng cân đối. Cây đào thất thốn ấy cao gần một mét, gốc lũa thành dáng ngũ hành, ba cành lớn tạo thế tam long đón gió. Mỗi lần thất thốn trổ bông, những loài hoa còn lại trong vườn hoàn toàn lép vế. Không hiểu sao, thất thốn bỗng nhiên chết làm cho chủ nhân của nó buồn mấy mùa xuân. Cũng may, người con trai cả đang dạy học ở Quế Lâm, Trung Quốc, kịp mang về cây đào trắng cũng thuộc loại đào quí hiếm giúp ông nguôi ngoai phần nào. Ngoài thất thốn ông còn có đôi hồng trà, bạch trà, mai tứ quí trồng trong những chiếc chậu sứ miệng lớn hơn vòng tay, vẽ nổi, cũng thuộc loại đồ cổ quí hiếm.

Hoàng Mai Trang có những hòn non bộ không lớn, một phần do túi tiền eo hẹp, một phần, non bộ là thú chơi, với ông, không thuộc hạng ưu tiên. Có hai non bộ đáng kể là hòn dáng trực, đá Ninh Bình, xếp dưới gốc lạp mai ngay cửa sổ tây của nhà ba gian và hòn mẫu tử đồng vọng, chơi trong nhà, đá núi Cô Tiên, Sầm Sơn, Thanh Hóa. Ông xếp non bộ công phu, kiên trì như thợ đãi vàng, hy vọng kiếm tìm vẻ đẹp sơn cước từ bàn tay tạo hóa, gửi gắm mỹ cảm vào từng vách đá, hốc núi…, nên mặc dù là núi giả nhưng phải là người tinh tế lắm mới phát hiện ra những mạch chắp nối của hòn non.

Chủ nhân Hoàng Mai Trang không chuyên về khảo cổ học nhưng rất ham thích sưu tầm cổ vật, nhất là đồ gốm sứ. Khốn nỗi gia cảnh ngặt nghèo, con đông, vợ yếu, thời thế đổi thay, ông phải vừa làm thày vừa làm thợ, đam mê là thế nhưng cơm áo cũng không phải chuyện đùa. Đồ cổ chưng trong nhà , phần lớn ông mua rẻ ở chợ huyện, chợ phủ, hoặc đổi chác bằng cây cảnh, hoặc bạn bè, anh em biếu tặng nên đa số sứt mẻ, cọc cạch. Tuy vậy, ông cũng có những món đồ cổ rất giá trị như bộ đĩa sứ ống thiếu, đôi bát tìm cúc dây nắp đậy, bộ đồ pha trà đời Đường, tượng Khương Tử Nha câu cá bên sông Vị, độc bình sứ rạn chân chim vẽ nổi bức Táo quân chầu trời đời Tống…Ông còn có bộ sập gụ, tràng kỷ, tủ chè bằng gỗ gụ và khá nhiều đồ nội thất khác bị phân tán, mất tích trong năm cải cách ruông đất 1954 ở miền Bắc.

Bài học cho con, cháu


Từ ngõ vào nhà, ra vườn, ai cũng cảm được sự trù phú, đài trang, no đủ, ngỡ rằng gia cảnh này chắc hẳn tột bậc phong lưu. Ngay cả hàng xóm kế bên cũng nghĩ Hoàng Mai Trang giàu có nhất làng. Bình phẩm như thế là hoàn toàn có lý, bởi nghèo khó thì không thể sống theo phong độ ấy, lại bởi chủ nhân Hoàng Mai Trang thuộc dòng dõi cao sang, danh giá trong vùng. Ông còn là cháu ngoại của gia tộc Hào Uân ở Đình Phùng, giàu có nhất tỉnh. Người ta kể rằng, khi con gái họ Phạm ở Đình Phùng về làm dâu Trình Phố mang theo mấy thuyền chở của hồi môn và hàng chục mẫu canh điền bờ xôi ruộng mật. Đó là câu chuyện có thật của nửa đầu thế kỷ 20. Dòng họ ấy đã dần sa sút từ cuối thập niên 1950 như hầu hết mọi dòng họ trâm anh thế phiệt khác ở lãnh thổ phía Bắc. Khác với thổ cư của những gia đình khá giả ở Trình Phố như Cả Lân, Cả Long, Huyện Tô…, tụt hạng, xuống cấp trông thấy, Hoàng Mai Trang vẫn giữ được đẳng cấp là nhờ sự siêng năng, căn cơ, tiết kiệm, ý tưởng sáng tạo của chủ nhân. Ông viết gia huấn ca, lồng khung kính, treo gian chính giữa để con cái hàng ngày làm theo. Bản thân ông là người nhất mực gương mẫu. Ông thường mặc quần áo may bằng vải nái thô, nhuộm nước củ nâu già. Những chiếc áo nâu may rộng, cổ tròn, ba túi, gấu to, vừa mát lại tiện dụng đựng bật lửa, sáp thuốc. Mỗi bộ quần áo ông mặc năm sáu năm mới rách. Dưới ao, thả đủ loại cá, quanh bờ vật bùn trồng mướp rau đay, trên vườn xen canh mùa nào rau nấy. Trong Hoàng Mai Trang luôn có lợn, gà, cá rau, cung cấp đủ cho nhu cầu 11 miệng ăn, cho việc giỗ chạp, đãi khách. Ông tự chế những vật dụng bằng tre vườn nhà đã đẹp lại bền. Ông còn có năng khiếu kiến trúc và ứng dụng “công nghệ tự biên tự diễn” để tiết kiệm triệt để vật liệu xây dựng. Xi măng, sắt thép, gạch, vôi…,vào tay ông là giá trị sử dụng được nâng lên gấp ba gấp bốn.


Tháng ba ngày tám, gặp lúc mất mùa đói kém, cơm phải độn củ dong riềng, quả sung xanh hoặc khoai lang, khoai nước, ông phải ngồi đầu nồi chia cơm cho các con, tránh cho vợ bị áp lực từ tình mẫu tử khó cầm cân nẩy mực trước đàn con nít thường dễ phân bì, tỵ nạnh. Trước bữa ăn trưa và tối ông thường nhâm nhi hai chén mắt trâu rượu gạo, nhắm với lạc rang. Mỗi lần ông rang độ ba lẻ lạc nhân cho vào chai thủy tinh nửa lít, nút chặt, treo cao, dùng dần. Mỗi bữa rượu ông chỉ đưa cay bằng mươi hạt lạc…Nhờ triết lý biết đủ và niềm yêu sống mãnh liệt, ông đã cùng vợ nuôi dậy đàn con nên người và gìn giữ Hoàng Mai Trang tươi xanh, trù phú.

Ông chủ Hoàng Mai Trang là người rành quốc ngữ, biết chữ Hán và tiếng Pháp. Ông thường viết loại chữ thảo, ngữ pháp chuẩn mực, diễn đạt khúc chiết. Giọng ông sang sảng, trán cao, mắt sáng, ngực nở, vai rộng…, luôn toát lên vẻ tự tin, quyết đoán. Bằng cấp trường qui không cao nhưng tầm văn hóa và sự trải nghiệm của ông ít người sánh kịp. Ông là thầy thuốc thuộc vào hàng giỏi nhất vùng châu thổ sông Hồng nửa cuối thế kỷ 20, từng tham gia Ban chấp hành Hội đông y Việt Nam, biên soạn giáo trình đông y cho Đại học y khoa Thái Bình. Ông dò tượng mạch quan, thốn, xích bằng bàn tay có những ngón thon dài của nho sinh nhưng chi chít vết chai sạn của người lao động cơ bắp bất đắc dĩ. Xem ông văn, vấn, chẩn, thiết để xét đoán khí huyết, lục phủ, ngũ tạng, người bệnh đã cảm thấy triệu chứng bệnh tật thuyên giảm một phần. Ông đã cứu chữa không biết bao nhiêu người bệnh nan y tứ chứng.

Chủ nhân của Hoàng Mai Trang còn là tác giả của một số bài thơ Đường luật và ca trù khá độc. Ông thừa hưởng khiếu văn chương của một dòng họ nghìn năm đèn sách, khoa bảng, sự nghiệp lẫy lừng. Dù thuộc thế hệ nho sinh cuối cùng ở đất Bắc, lại kinh qua những biến cố thịnh, suy đáng kể của lịch sử nhưng ông không kiêu bạc, oán hận, cay cú hay xu thời, yếm thế, luôn hướng tới một cuộc sống nhân văn.

Cảnh vật Hoàng Mai Trang không  hoành tráng  hay kỳ bí nhưng chỗ nào, thứ gì cũng thể hiện cuộc chơi của chủ nhân, những cuộc chơi để hoàn thiện nhân cách, mỗi cuộc chơi là bài học răn dạy cháu con.

Ông mất vào lúc 9 giờ ngày 25 tháng 6 năm Giáp Tý, 1985, trước đó hơn hai tiếng, ông còn bắt mạch kê đơn cho một người ở tận Quỳnh Côi, mắc chứng bệnh thận nhiễm mỡ. Từ mấy hôm trước, ông đã bóng gió với người con trai thứ, nếu ông mất, không nên rình rang ma chay. Ông chỉ mong các con dù làm gì, ở đâu, hãy nhớ về nơi đã sinh ra mình, ấy là HOÀNG MAI TRANG!
                                                                   
Sài Gòn cuối hạ - N.Q.T



Không có nhận xét nào: