.jpg)
Nhìn tổ đoán chim, vào nhà đoán chủ. Gia đình chính là nền tảng hình thành bản lĩnh văn hóa của một đất nước. Truyền thống của một gia tộc trong xã hội hiện đại, tuy không phô trương lộ diện, nhưng dòng chảy âm thầm ấy vẫn góp phần quan trọng gìn giữ nhân cách sống và tình yêu quê hương, Tổ Quốc của người Việt hôm nay...
Cha trồng cây, con hái quả
Ông chủ của Hoàng Mai Trang sinh ra, lớn lên và lập nghiệp ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ nhưng lại lấy tên một loài hoa ở miền Nam làm bút hiệu, bút hiệu Hoàng Mai. Đó là một điều lạ.
Trước ngõ ông xây một
cái cổng lớn. Trên mái cổng xây bức cuốn thư có ba chữ “ Hoàng Mai Trang” bằng
chữ nho.
Hoàng Mai Trang không
lớn lắm, thổ cư ước chừng vài ba ngàn mét vuông. Giữa thổ cư có hai cái nhà làm
bằng gỗ lim, nghiến, dổi, xoan rừng, một cái ba gian, một cái bảy gian, kiến trúc
theo lối cổ. Cái ba gian hướng chính tây, lợp ngói mũi, làm nơi thờ cúng. Cái
bảy gian, hướng chính nam, lợp rạ, để ở. Hai nhà chung một cái sân
gạch, lát toàn gạch thất. Gạch thất nung bằng lửa rơm rạ nên không bị phồng, cháy, chín đều và chịu lực
cao.
Ao hai bên ngõ. Hai vườn
sau, trước. Cây trong vườn đa số đã cổ thụ. Cổ thụ nhất Hoàng Mai Trang là cây
nhãn. Gốc cây lớn hơn một sải tay ôm. Xế chiều bóng nhãn phủ rợp sân trước nhà.
Mùa bão, tán nhãn như bức bình phong che chắn khi bão đổi gió tây, hướng gió
mạnh nhất của một cơn bão nhiệt đới. Cây nhãn do cụ thân sinh ra ông trồng là giống
nhãn lồng Hưng Yên. Tuy mang từ Hưng Yên về trồng nhưng nó không bị lai giống
vì khác biệt thổ ngơi như những cây khác
trong làng. Đây cũng là điều lạ !
Nhãn chín về mùa thu. Để canh lũ dơi đêm phá nhãn, lấy
vỏ ốc bươu xâu từng chùm, treo lên cành chỉ thiên, thòng dây xuống đất, giật
liên hồi từng đợt như trống cầm canh. Những năm không bão, nhãn sai, hái được
ước chừng cả tấn quả. Nhãn Hoàng Mai Trang thường bán “quạ” cả cây cho thương
lái ở tận Nam Cao, Vân Trường, Thư Trì đến mua, chỉ để lại vài cành ngang phía
Đông. Chỉ vài cành thôi cũng đủ biếu họ hàng và cả nhà ăn đã đời. Ông bảo cành
trỏ phía Đông, quả to, hạt nhỏ, cùi dày, mọng nước và ngọt hơn cành khác. Ngày
thương lái đến hái nhãn, bọn trẻ trong xóm cởi trần trùng trục xúm quanh gốc
nhãn, ngóng những quả rơi, quả rụng. Có đứa nhanh chân, ăn chán còn kiếm được
lưng rá nhãn rời. Thương lái hái nhãn xong, mấy ngày sau, lũ con trai choai
choai còn đến xin trèo cây, mót lại. Tiền bán nhãn đủ để ông mua quần áo, sách
vở cho chín đứa con ông, năm gái, bốn trai suốt năm học. Ông yêu quý cây nhãn
một phần vì nó là lộc trời của bố ông để lại, phần nó làm nên vẻ riêng của
Hoàng Mai Trang. Từ đường cái vào làng khoảng cây số, đã nhìn thấy rất rõ cây
nhãn trong Hoàng Mai Trang, vươn cao hơn cả rặng tre cái, hàng cau già.
Nhãn cổ thụ trong Hoàng Mai Trang không chỉ cho quả ngọt
mà còn là sân chim vui hót quanh năm. Sáo sậu, chích chòe, sẻ bông, cu gáy…, về
đây cặp đôi, làm tổ, đẻ trứng. Lũ chim ở đây được tự do, an toàn vì sự thân
thiện của những người sinh sống trong Hoàng Mai Trang. Mỗi buổi sớm lũ chim thi
nhau hót như thể dàn đồng ca đủ giai điệu ngẫu hứng, hòa tấu cùng bình minh đẫy
giấc. Đáng yêu nhất là những cái mỏ bé tí xíu của những chú chim non chưa rụng
mép, rướn đầu cao qua tổ, miệng há hốc, kêu toáng lên chíp chíp, đòi ăn. Đôi
khi, chú chim khách xuất hiện, với cái đuôi loẹt quẹt dài hơn chân, vươn cổ về
phía cửa nhà bảy gian hót liên tục mấy hồi liền. Mỗi lần chim khách hót, y như
rằng trong Hoàng Mai Trang lại chộn rộn chuẩn bị đón khách thân tình từ xa đến.
Thổ cư Hoàng Mai Trang
có hai vườn chè xanh tuổi cả trăm năm, gốc sù sì, thân mốc trắng. Vườn trước kề
ao trước, sát ngõ vào, xen lẫn chanh, ngâu, vải thiều, đu đủ…, dậu dâm bụt bao
quanh. Vườn sau giáp ao sau, rộng gấp ba vườn trước, bên dậu ruối, bên dậu mây
lẫn tre hóp. Ngoài chè còn có mít, na, bưởi, cam, ổi, nhót, cau, xoan, chuối,
vối…, và những cây làm thuốc nam như bạc hà, lốt tía, khổ sâm, hàm ếch, thầu
dầu gai, huyết dụ…Quanh năm vườn trước vườn sau, xum xuê lá cành, hoa trái. Chè
xanh bánh tẻ hái sáng sớm, hãm trong bình tích hai quai cùng với mấy lát gừng
tươi, ủ giỏ bông kín nắp, khoảng nửa giờ, rót ra lưng lửng bát đàn sứ trắng vừa
thổi vừa uống, kèm thêm vài củ khoai lang bở luộc, thành bữa dặm lúc xế trưa.
Cao sang trong nghèo khó
Hoàng
Mai Trang còn có vườn cảnh và non bộ. Chủ nhân là người đam mê cây cảnh và non
bộ cũng say sưa như uống trà, uống rượu và làm thơ. Nhưng ông chỉ chơi những
loài hoa quí như địa lan, lạp mai, đào thất thốn, trà bát diện… Trên bàn uống
trà của ông lúc nào cũng có dăm ba dò địa lan, hoặc tứ quý, hội điểm, mạc lan,
hoặc bạch ngọc, hài vệ nữ… Địa lan có sắc đẹp ngắm lâu không chán, hương thơm
bất chợt, thanh tao. Những chậu địa lan của ông không thua kém gì những chậu
địa lan ở Nghi Tàm, Hà Nội. Nhưng thời ấy, trồng địa lan theo cách tự nhiên cực
khó. Địa lan ưa bùn ao phơi nỏ, tưới nước mầu ngâm từ lông gia cầm, gia súc,
sinh trưởng trong môi trường bán âm, bán dương, kém chịu hạn nhưng cũng không
quen sũng nước. Một chậu địa lan đẹp phải đủ tiêu chuẩn về chồi, ngồng từ mỗi
giò, đủ số hoa trên mỗi ngồng, lá trải, mịn, mượt và quan trọng nhất là thần
sắc trên từng cánh hoa tươi nhã. Có cả hàng chục loài địa lan, tuy hình hài,
màu sắc khác nhau nhưng cùng một phong cách tỏa hương. Ông bảo, địa lan không
bao giờ tỏa hương trước kẻ phàm phu tục tử. Đó là loài hoa không ai có thể
cưỡng bức thụ hưởng, nó chỉ dâng hiến hương thơm cho người xứng đáng.
Ông
chơi cây thế (Bon sai) cũng rất lạ, không thích thế cây có sẵn mà tự mình tạo
dáng cho cây. Nhưng cách tạo dáng của ông cũng khác, không uốn, vin cành bằng
dây kẽm hay dây thép, không cấy ghép mà chỉ cắt, tỉa để tự nó bật ra thế cây thành
dáng trực, dáng huyền, ngũ phúc hay phụ
tử tương thân… một cách tự nhiên. Vườn cảnh Hoàng Mai Trang có những cây bon
sai vọng cách, đa lông, song mai…, có một không hai. Cuối thập kỷ 1970, Hoàng
Mai Trang còn có cây đào thất thốn nguyên chủng, là một trong ba cây đào thất
thốn đẹp nhất nước lúc bấy giờ. Cây đào này trồng trước hiên vọng nguyệt. Hiên
vọng nguyệt ở chái nam nhà ba gian, hướng ra cầu ao trước, chia làm ba ô, cùng
kiến trúc đặc tả những nửa vầng trăng thành hai hàng cân đối. Cây đào thất thốn
ấy cao gần một mét, gốc lũa thành dáng ngũ hành, ba cành lớn tạo thế tam long
đón gió. Mỗi lần thất thốn trổ bông, những loài hoa còn lại trong vườn hoàn
toàn lép vế. Không hiểu sao, thất thốn bỗng nhiên chết làm cho chủ nhân của nó
buồn mấy mùa xuân. Cũng may, người con trai cả đang dạy học ở Quế Lâm, Trung
Quốc, kịp mang về cây đào trắng cũng thuộc loại đào quí hiếm giúp ông nguôi
ngoai phần nào. Ngoài thất thốn ông còn có đôi hồng trà, bạch trà, mai tứ quí
trồng trong những chiếc chậu sứ miệng lớn hơn vòng tay, vẽ nổi, cũng thuộc loại
đồ cổ quí hiếm.
Hoàng
Mai Trang có những hòn non bộ không lớn, một phần do túi tiền eo hẹp, một phần,
non bộ là thú chơi, với ông, không thuộc hạng ưu tiên. Có hai non bộ đáng kể là
hòn dáng trực, đá Ninh Bình, xếp dưới gốc lạp mai ngay cửa sổ tây của nhà ba
gian và hòn mẫu tử đồng vọng, chơi trong nhà, đá núi Cô Tiên, Sầm Sơn, Thanh
Hóa. Ông xếp non bộ công phu, kiên trì như thợ đãi vàng, hy vọng kiếm tìm vẻ
đẹp sơn cước từ bàn tay tạo hóa, gửi gắm mỹ cảm vào từng vách đá, hốc núi…, nên
mặc dù là núi giả nhưng phải là người tinh tế lắm mới phát hiện ra những mạch chắp
nối của hòn non.
Chủ
nhân Hoàng Mai Trang không chuyên về khảo cổ học nhưng rất ham thích sưu tầm cổ
vật, nhất là đồ gốm sứ. Khốn nỗi gia cảnh ngặt nghèo, con đông, vợ yếu, thời
thế đổi thay, ông phải vừa làm thày vừa làm thợ, đam mê là thế nhưng cơm áo
cũng không phải chuyện đùa. Đồ cổ chưng trong nhà , phần lớn ông mua rẻ ở chợ
huyện, chợ phủ, hoặc đổi chác bằng cây cảnh, hoặc bạn bè, anh em biếu tặng nên
đa số sứt mẻ, cọc cạch. Tuy vậy, ông cũng có những món đồ cổ rất giá trị như bộ
đĩa sứ ống thiếu, đôi bát tìm cúc dây nắp đậy, bộ đồ pha trà đời Đường, tượng
Khương Tử Nha câu cá bên sông Vị, độc bình sứ rạn chân chim vẽ nổi bức Táo quân
chầu trời đời Tống…Ông còn có bộ sập gụ, tràng kỷ, tủ chè bằng gỗ gụ và khá
nhiều đồ nội thất khác bị phân tán, mất tích trong năm cải cách ruông đất 1954
ở miền Bắc.
Bài
học cho con, cháu
Từ
ngõ vào nhà, ra vườn, ai cũng cảm được sự trù phú, đài trang, no đủ, ngỡ rằng
gia cảnh này chắc hẳn tột bậc phong lưu. Ngay cả hàng xóm kế bên cũng nghĩ
Hoàng Mai Trang giàu có nhất làng. Bình phẩm như thế là hoàn toàn có lý, bởi
nghèo khó thì không thể sống theo phong độ ấy, lại bởi chủ nhân Hoàng Mai Trang
thuộc dòng dõi cao sang, danh giá trong vùng. Ông còn là cháu ngoại của gia tộc
Hào Uân ở Đình Phùng, giàu có nhất tỉnh. Người ta kể rằng, khi con gái họ Phạm
ở Đình Phùng về làm dâu Trình Phố mang theo mấy thuyền chở của hồi môn và hàng
chục mẫu canh điền bờ xôi ruộng mật. Đó là câu chuyện có thật của nửa đầu thế kỷ
20. Dòng họ ấy đã dần sa sút từ cuối thập niên 1950 như hầu hết mọi dòng họ
trâm anh thế phiệt khác ở lãnh thổ phía Bắc. Khác với thổ cư của những gia đình
khá giả ở Trình Phố như Cả Lân, Cả Long, Huyện Tô…, tụt hạng, xuống cấp trông
thấy, Hoàng Mai Trang vẫn giữ được đẳng cấp là nhờ sự siêng năng, căn cơ, tiết
kiệm, ý tưởng sáng tạo của chủ nhân. Ông viết gia huấn ca, lồng khung kính,
treo gian chính giữa để con cái hàng ngày làm theo. Bản thân ông là người nhất
mực gương mẫu. Ông thường mặc quần áo may bằng vải nái thô, nhuộm nước củ nâu
già. Những chiếc áo nâu may rộng, cổ tròn, ba túi, gấu to, vừa mát lại tiện
dụng đựng bật lửa, sáp thuốc. Mỗi bộ quần áo ông mặc năm sáu năm mới rách. Dưới
ao, thả đủ loại cá, quanh bờ vật bùn trồng mướp rau đay, trên vườn xen canh mùa
nào rau nấy. Trong Hoàng Mai Trang luôn có lợn, gà, cá rau, cung cấp đủ cho nhu
cầu 11 miệng ăn, cho việc giỗ chạp, đãi khách. Ông tự chế những vật dụng bằng
tre vườn nhà đã đẹp lại bền. Ông còn có năng khiếu kiến trúc và ứng dụng “công
nghệ tự biên tự diễn” để tiết kiệm triệt để vật liệu xây dựng. Xi măng, sắt
thép, gạch, vôi…,vào tay ông là giá trị sử dụng được nâng lên gấp ba gấp bốn.
Tháng
ba ngày tám, gặp lúc mất mùa đói kém, cơm phải độn củ dong riềng, quả sung xanh
hoặc khoai lang, khoai nước, ông phải ngồi đầu nồi chia cơm cho các con, tránh
cho vợ bị áp lực từ tình mẫu tử khó cầm cân nẩy mực trước đàn con nít thường dễ
phân bì, tỵ nạnh. Trước bữa ăn trưa và tối ông thường nhâm nhi hai chén mắt
trâu rượu gạo, nhắm với lạc rang. Mỗi lần ông rang độ ba lẻ lạc nhân cho vào
chai thủy tinh nửa lít, nút chặt, treo cao, dùng dần. Mỗi bữa rượu ông chỉ đưa
cay bằng mươi hạt lạc…Nhờ triết lý biết đủ và niềm yêu sống mãnh liệt, ông đã
cùng vợ nuôi dậy đàn con nên người và gìn giữ Hoàng Mai Trang tươi xanh, trù
phú.
Ông
chủ Hoàng Mai Trang là người rành quốc ngữ, biết chữ Hán và tiếng Pháp. Ông
thường viết loại chữ thảo, ngữ pháp chuẩn mực, diễn đạt khúc chiết. Giọng ông
sang sảng, trán cao, mắt sáng, ngực nở, vai rộng…, luôn toát lên vẻ tự tin,
quyết đoán. Bằng cấp trường qui không cao nhưng tầm văn hóa và sự trải nghiệm
của ông ít người sánh kịp. Ông là thầy thuốc thuộc vào hàng giỏi nhất vùng châu
thổ sông Hồng nửa cuối thế kỷ 20, từng tham gia Ban chấp hành Hội đông y Việt
Nam, biên soạn giáo trình đông y cho Đại học y khoa Thái Bình. Ông dò tượng mạch
quan, thốn, xích bằng bàn tay có những ngón thon dài của nho sinh nhưng chi
chít vết chai sạn của người lao động cơ bắp bất đắc dĩ. Xem ông văn, vấn, chẩn,
thiết để xét đoán khí huyết, lục phủ, ngũ tạng, người bệnh đã cảm thấy triệu
chứng bệnh tật thuyên giảm một phần. Ông đã cứu chữa không biết bao nhiêu người
bệnh nan y tứ chứng.
Chủ
nhân của Hoàng Mai Trang còn là tác giả của một số bài thơ Đường luật và ca trù
khá độc. Ông thừa hưởng khiếu văn chương của một dòng họ nghìn năm đèn sách,
khoa bảng, sự nghiệp lẫy lừng. Dù thuộc thế hệ nho sinh cuối cùng ở đất Bắc,
lại kinh qua những biến cố thịnh, suy đáng kể của lịch sử nhưng ông không kiêu
bạc, oán hận, cay cú hay xu thời, yếm thế, luôn hướng tới một cuộc sống nhân
văn.
Cảnh
vật Hoàng Mai Trang không hoành
tráng hay kỳ bí nhưng chỗ nào, thứ gì
cũng thể hiện cuộc chơi của chủ nhân, những cuộc chơi để hoàn thiện nhân cách,
mỗi cuộc chơi là bài học răn dạy cháu con.
Ông
mất vào lúc 9 giờ ngày 25 tháng 6 năm Giáp Tý, 1985, trước đó hơn hai tiếng,
ông còn bắt mạch kê đơn cho một người ở tận Quỳnh Côi, mắc chứng bệnh thận
nhiễm mỡ. Từ mấy hôm trước, ông đã bóng gió với người con trai thứ, nếu ông
mất, không nên rình rang ma chay. Ông chỉ mong các con dù làm gì, ở đâu, hãy
nhớ về nơi đã sinh ra mình, ấy là HOÀNG MAI TRANG!
Sài Gòn cuối hạ - N.Q.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét