Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

Giấc mơ Mỹ - GIẤC MƠ “CỜ HOA”


NGÔ QUỐC TÚY

            “Hoa Kỳ” là cái tên Trung Quốc đặt cho nước Mỹ từ giữa thế kỷ 19, khi họ thấy lá cờ của quốc gia này rất nhiều sao. Những ngôi sao trên cờ Mỹ như những bông hoa nở trên nền trời. “Hoa Kỳ” là từ ghép của “Hoa”(sao) và “Cờ” (kỳ). Có lẽ từ góc nhìn văn hóa chữ viết tượng hình nên người Hán mới nghĩ ra cái tên mỹ (đẹp) như thế !
                 
 
 “Vận mệnh hiển nhiên” (Mani Fest Dastiny)      
     
    
          Hoa Kỳ có 50 tiểu bang và 14 vùng lãnh thổ khác rải rác trên biển Caribbe, biển Thái Bình Dương. Với diện tích 9,83 triệu km2, dân số 316 triệu người, Mỹ là nước có qui mô về lãnh thổ, dân cư đứng thứ 3 thế giới. Nhưng sự khác biệt của nước Mỹ không phải ở diện tích và dân số mà là sự đa dạng của địa hình, khí hậu, thời tiết, sắc tộc, tín ngưỡng... Có người ví thiên nhiên và văn hóa đất nước này như nồi súp, nồi lẩu đủ mùi vị, sắc màu, hấp dẫn mọi gu ẩm thực của loài người.

          Bình quân GDP của Mỹ 10 năm đầu thế kỷ 21 khoảng 15 nghìn tỷ USD một năm, chiếm 23% GDP của cả thế giới. Thập kỷ kinh tế Mỹ thăng hoa gần đây nhất là thập kỷ 1991 – 2001, thập kỷ 2 nhiệm kỳ của tổng thống Bill Clinton. Trong top 10 tỷ phú thế giới năm 2013, Mỹ chiếm một nửa (Biill Gates, Warren Buffet, Larry Ellison, Charles Koch, David Koch). Nhưng điều quan trọng hơn cả là nền kinh tế số 1 thế giới này tồn tại và phát triển trên nền móng vững chắc suốt hàng trăm năm nay.

Sức mạnh Mỹ được thử thách qua những cơn địa chấn toàn cầu như chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), khủng khoảng kinh tế thế giới (1936 – 1939), chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939 – 1945), chiến tranh lạnh (1950 – 1990), suy thoái kinh tế toàn cầu (2008). Nước Mỹ thời kỳ hậu công nghiệp, 85% dân số sinh sống trong 361 thành phố và thị trấn, dịch vụ chiếm 75% tổng sản phẩm nội địa, hiệu suất lao động cao nhất thế giới... Mỹ còn được xem là vương quốc của máy bay và xe hơi, bình quân 800 xe hơi trên 1000 dân. Nền kinh tế thị trường phân cấp xã hội Mỹ ra các thành phần (theo tiêu chí Mỹ) : Thượng lưu (1%), trên trung lưu (15%), trung lưu (33%), nghèo (13%), dưới nghèo (12%). Tuy nhiên, với chính sách thuế và chế độ an sinh rất nhân bản nên người giàu ở Mỹ tuy chỉ chiếm 1% nhưng họ phải đóng tới 40% tiền thuế cho ngân sách quốc gia còn người nghèo và thất nghiệp lại được nhận các khoản trợ cấp đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu. Bởi vậy, đa số dân lao động ở các nước đang phát triển mơ được sống như diện “dưới nghèo” ở đất Mỹ. Thị trường chứng khoán phố Wall ở Manhattan hiện vẫn giữ vai trò hàn thử biểu của nền kinh tế thế giới. Có lẽ trong thế kỷ 21, không thể có quốc gia nào vượt Mỹ về kinh tế.

          Chính sách ngoại giao của Mỹ luôn nhất quán từ ngày lập quốc. Người Mỹ không rao giảng “đa phương hóa, đa dạng hóa”, “làm bạn với tất cả các nước”, “bỏ qua quá khứ hướng tới tương lai”..., nhưng với quốc gia nào Mỹ cũng có thể chơi được, chơi theo kiểu khác nhau, chơi theo kiểu Mỹ. Trong số hơn hai trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ có 5 nước là Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Bhutan, Sudan, Iran chưa có ngoại giao chính thức với Mỹ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Mỹ nhanh chóng thiết lập ngoại giao và trở thành đồng minh với cựu thù như Đức, Ý, Nhật... Sau vụ khủng bố bằng máy bay vào Trung tâm thương mại ở New York và Lầu năm góc ở Washington D.C ngày 11 tháng 9 năm 2001 của tổ chức khủng bố là người hồi giáo Al-Qaeda làm gần ba nghìn người thiệt mạng, Mỹ vẫn giữ mối quan hệ bình thường với các nước hồi giáo như Indonexia, Ả Rập Saudi, Pakixtan..., người theo đạo Hồi vẫn sống yên bình trên nước Mỹ. Những phát ngôn, tuyên bố về ngoại giao của Mỹ rất ngắn gọn, cụ thể, hàm chứa một thông điệp mạnh mẽ, dứt khoát và ấn tượng nhưng không bao giờ có những từ ngữ mạt sát, ngông cuồng, qui chụp hay vồ vập “viển vông”.

          Quân đội Mỹ hiện có 1,4 triệu quân nhân cùng 700 nghìn nhân viên dân sự làm thuê trong nghành công nghiệp quốc phòng. Với 770 căn cứ quân sự, trên hành tinh này chỉ trừ Nam Cực là không có sự hiện diện của quân đội Mỹ. Ngoài ra, Mỹ còn có những liên minh quân sự đặc biệt với Anh, Nhật, Australia, Israel, New Zealand..., là những nước đại diện cho lợi ích chiến lược toàn cầu của Mỹ ở châu Âu, châu Á, Trung Đông, Thái Bình Dương. Liên minh quân sự Khối Bắc Đại Tây Dương (NATO), thành lập 1949, dưới sự chỉ huy của tướng Mỹ là liên minh quân sự lớn nhất thế giới. Trên biển, hiện Mỹ có 11 hàng không mẫu hạm và chuẩn bị bổ sung một số siêu hàng không mẫu hạm, tàu ngầm, thủy lôi..., có khả năng hiện diện tác chiến khắp “bảy phần nước” của trái đất. Trên trời, Mỹ có hệ thống vệ tinh, máy bay trinh sát, máy bay ném bom hiện đại, luôn thường trực quan sát, thu thập thông tin và không kích chính xác bất cứ nơi nào trên thế giới.

Trong suốt thế kỷ 20 và 14 năm đầu thế kỷ 21, trừ những cuộc rút quân có tính toán chiến lược toàn cầu của một cường quốc thế giới như ở bán đảo Triều Tiên, miền Nam Việt Nam còn hầu như cuộc chiến nào Mỹ, hoặc phe đồng minh có Mỹ tham gia cũng giành chiến thắng. Cuộc chiến của Mỹ ở Đông Nam Á từ 1964 dưới thời tổng thống Lyndon B Johnson thực chất là cuộc chiến thay thế cho sự đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc – Liên Xô thời chiến tranh lạnh. Những cuộc chiến của quân đội Mỹ được vũ trang những khí tài, công nghệ hiện đại, được huấn luyện công phu, được chỉ huy sáng suốt, tự tin, luôn tạo ra những ấn tượng đặc biệt. Những cuộc chiến do Mỹ và NATO phối hợp gần đây, ở vùng Vịnh (1991), Kosovo - Nam Tư (1999),  Afghanistan (2001), Iraq (2003)..., đặc biệt là cuộc đột nhập vào sào huyệt của tổ chức khủng bố Al-Qaeda ở thị trấn Bilal – Pakistan ngày 2 tháng 5 năm 2011, tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden như thể diễn ra trong phim trường Hollywood. Ngân sách dành cho quốc phòng của Mỹ thập niên đầu thế kỷ 21 bình quân gần 550 tỷ USD một năm, khoảng 1755 USD tính theo đầu người, gấp 10 lần trung bình thế giới.

Vị thế cường quốc của Mỹ không chỉ căn cứ vào tiềm lực quân sự , kinh tế mà còn thể hiện ở cách ứng xử và can thiệp của quốc gia này vào những xung đột, tranh chấp trên thế giới như vai trò của một “cảnh sát trưởng quốc tế”. Lợi ích của Mỹ luôn được tính toán cùng với lợi ích của các quốc gia liên quan, sòng phẳng và minh bạch. Bởi vậy, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước xã hội chủ nghĩa thường gán cho Mỹ cái tên “Đế Quốc”, “Sen Đầm Quốc Tế”, “Hổ Giấy”..., chứ không thể lên án Mỹ là “Bành Trướng”, “Bá Quyền”, “Thực Dân”...

Sau hơn ba thập kỷ thực thi thuyết “mèo đen, mèo trắng”, Trung Quốc đã có bước nhảy ngoạn mục về GDP trung bình trên 10% một năm. Không ít người đã đưa ra dự đoán kiểu “bom tấn” về khả năng Trung Quốc qua mặt Mỹ về vị thế siêu cường. Dự đoán ấy không phải không có cơ sở, nếu Trung Quốc khước từ kiểu tư duy ngai vàng, thiên tử của những thế kỷ trước, nếu Trung Quốc từ bỏ hệ thống toàn trị, nếu... Khác hẳn với Trung Quốc, Mỹ luôn tự tin và trung thành với thuyết “Vận mệnh hiển nhiên” (Mani Fest Dastiny) từ thế kỷ 16. Thuyết này đẻ ra Tuyên ngôn độc lập ngày 4 tháng 7 năm 1776, bộ luật nhân quyền năm 1791, với chân lý nhân bản “Tất cả con người sinh ra đều có quyền bình đẳng...” và đương nhiên, các quốc gia cũng có quyền bình đẳng.


Văn hóa boot cao gót, mũ cao bồi, quần Jean

Một bộ phận thổ dân Mỹ, chủ yếu ở vùng Alaska, di cư từ châu Á sang từ 1500 năm trước. Họ cùng với dân da đỏ bản địa tô vẽ sắc màu cuộc sống nhân gian ở miền viễn Tây thêm phần hoang dã, sử thi.  Ngày 11 tháng 11 năm 1493, Christopher Columbus, người đầu tiên của xã hội văn minh lúc đó, xuất hiện trên vùng viễn tây, báo hiệu kỷ nguyên mới trên vùng đất xa lạ này. Không lâu sau khi Columbus trở về , lần lượt các gương mặt sáng giá của lục địa già thời ấy có mặt ở đây theo thứ tự : Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Hà Lan, Thụy Điển... Người Anh tuy chậm chân nhưng chiến thuật chạy nước rút của họ lại hiệu quả hơn. Từ năm 1674, trên đất Mỹ, người Anh chiếm ưu thế hoàn toàn so với những quốc gia có mặt trước đó. Đến năm 1770, khoảng 3 triệu người Anh, tức một nửa dân số nước này, đã hiện diện ở Mỹ.

Sau khi lập nước, từ năm 1800, lãnh thổ Mỹ mở rộng thêm gần một nửa diện tích về phía Tây , vượt qua dãy núi Appalachian và sông Mississippi. Sự hài hòa giữa văn hóa thảo nguyên châu Âu và văn hóa đồng cỏ miền viễn Tây nhanh chóng trở thành đặc trưng của linh hồn Mỹ.

“Cao bồi” chuyển ngữ từ tiếng Tây Ban Nha “Vaquero” để chỉ những người chuyên cưỡi ngựa, chăn dắt gia súc. Một cao bồi đích thực phải biết quăng giây, cưỡi ngựa không yên và cưỡi được cả bò tót. Cao bồi thường làm việc tới 18 tiếng một ngày cùng bầy gia súc. Bản năng của cao bồi rất gần với phẩm chất tự nhiên của miền viễn tây rộng lớn, quạnh hiu, kiêu bạc, đa tình. Cao bồi gắn với cuộc sống xê dịch, màn trời chiếu đất, gần như độc mã, đơn phương, cô đơn giữa bất tận đồi núi và bầu trời. Cao bồi không biết sợ hãi nhưng cũng nặng lòng trắc ẩn trước những kẻ yếu thế hơn mình. Cao bồi nổi tiếng nhất nước Mỹ là Buffalo Bill Cody (1846 – 1917). Cody đã trở thành hình mẫu của điện ảnh, âm nhạc, hội họa và là thần tượng của tuổi trẻ, của phái đẹp từ thế hệ này qua thế hệ khác...

Trang phục nổi bật nhất của cao bồi là đôi boot cao gót và chiếc mũ nỉ vành rộng. Đôi boot bằng da, có trang trí hoa văn và đính khuy cầu kỳ, gân guốc, vững chãi, thể hiện sự cao ngạo, bụi bặm, phong sương, lỳ lợm nhưng vẫn toát lên vẻ cao sang hoang dã của một quí ông. Chiếc mũ vành rộng, bẻ cong, toát lên khí chất phóng khoáng, ga-lăng, lãng tử có sức hấp dẫn, lôi cuốn phái đẹp một cách tinh tế. Một đôi boot và một chiếc mũ cao bồi làm đúng qui cách và chất lượng như nguyên bản, theo thời giá hiện nay khoảng 2500 USD (tương đương 55 triệu VND). Cho đến đầu thế kỷ 21, thời trang theo phong cách cao bồi vẫn là mốt của thời trang thế giới.
Cơn sốt vàng 1848 – 1849 cùng với những cặp đường ray hỏa xa len lỏi dần về miền viễn tây, 40 triệu con bò bison bị giết để lấy thịt và da, gây ra thảm họa cho không gian sinh tồn của thổ dân Mỹ, cũng là nguy cơ làm mất cân bằng hệ sinh thái ở nơi này. Từ gần 200 năm trước, Mỹ đã chủ trương qui hoạch, xây dựng hàng trăm công viên quốc gia tạo ra những vành đai pháp lý để bảo tồn thiên nhiên, ngăn chặn hành vi tự sát của chính con người trong xã hội văn minh. Điều đó cũng chứng tỏ tầm nhìn Mỹ, văn hóa Mỹ rất ưu ái đối với thiên nhiên, đối với quá khứ.

Văn hóa Mỹ đương đại vẫn thừa hưởng hồn cốt văn hóa viễn tây thời hoang dã nói riêng và văn hóa truyền thống nói chung. Nó không chỉ thể hiện ở thời trang, ẩm thực, âm nhạc, điện ảnh mà còn thể hiện ở tính cách của cư dân nước này. Thực dụng, lạnh lùng, sòng phẳng, “phớt ăng-lê”..., nhưng lại rất hào hiệp, nhân bản là những phẩm chất chung nhất của người Mỹ.

Người Mỹ khoái hội hè, tôn trọng tâm linh nhưng không mê muội, sa đà vào những loại tín ngưỡng kiểu vàng mã. Hàng năm, dân Mỹ đón các ngày lễ tết lớn như : New Year (tết dương lịch), Presidents Day (lễ tổng thống), Memirial Day (lễ chiến sỹ trận vong), Christmas (lễ giáng sinh), Thanksgiving (lễ tạ ơn),... Đặc trưng các lễ hội ở Mỹ là chơi hết mình, không lụy nghi thức. Mỗi ngày dân Mỹ uống  150 triệu ly cà fe và trung bình mỗi người một năm uống 82 lít bia. Nhưng đa số dân Mỹ chỉ uống bia Mỹ (bia Budweiser). Bia Budweiser chiếm 50% thị trường Hoa Kỳ. Người Mỹ thường uống rượu trước bữa ăn. Ba loại nước giải khát được ưa thích nhất ở Mỹ là cocacola, sữa, nước cam. Món ăn nhanh ở Mỹ ngày càng phát triển dẫn đến hội chứng nghiện MC Donald. Bóng chày, bóng rổ, bóng bầu dục..., được người Mỹ ưa chuộng chỉ vì các môn bóng này có nhiều bàn thắng.



Trong giao tiếp, người Mỹ không cầu kỳ, điệu đà, hiểu người, biết ta, luôn tôn trọng đối tác dù là thù hay bạn. Chuyến thăm của tổng thống Mỹ Bill Clinton đến Việt Nam, khi ông còn đương chức, trong buổi nói chuyện tại đại học quốc gia Hà Nội, ông đã nhắc đến Truyện Kiều, hình ảnh tổng thống Barac Obama trong các buổi họp báo hay tiếp đón các nguyên thủ quốc gia không hoa tươi, nhẹ thủ tục hiếu hỉ..., thể hiện rất rõ những giá trị Mỹ trong xã hội văn minh.

Giấc mơ “cờ hoa” và “thế giới đơn cực”

Trải qua 3 cuộc chiến tranh lớn nhất trong thế kỷ 20 (chiến tranh thế giới lần 1, lần 2, chiến tranh lạnh), nước Mỹ là cường quốc duy nhất tương đối ổn định về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mỹ chẳng những vẫn tồn tại, phát triển mà còn giữ vững được vai trò số 1 thế giới, như thể “vận mệnh hiển nhiên” ứng nghiệm, giao phó cho xứ sở cờ hoa này. Được vậy là do văn hóa thể chế, chính trị của nước Mỹ đạt tới những giá trị đỉnh cao của thời đại. Giá trị ấy tuy chưa phải là vàng son, kinh điển, càng không phải là mẫu mực cho mọi quốc gia, nhưng nó kích hoạt được năng lượng cộng hưởng của 3 yếu tố cốt lõi là thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tạo nên vương miện cho xứ sở cờ hoa.

Hoa Kỳ là quốc gia cộng hòa lập hiến với nền dân chủ đại nghị : Lập pháp thuộc quyền Quốc hội (lưỡng viện). Tư pháp thuộc quyền Tối cao pháp viện. Hành pháp thuộc quyền Tổng thống. Chế độ tam quyền phân lập tạo ra sự công khai minh bạch, hạn chế tối đa sự lạm dụng của bộ máy nhà nước, đúng nghĩa “nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Hạ viện có 435 ghế, chia theo tỷ lệ dân số của mỗi bang. Tối cao pháp viện gồm 9 thành viên, phục vụ cả đời, trừ trường hợp thành viên từ chức hoặc chết. Nhiệm kỳ tổng thống 4 năm, đương kim tối đa 2 nhiệm kỳ. Lịch sử chính trị Hoa Kỳ là lịch sử hoạt động của đảng Cộng Hòa (thành lập 1854) và đảng Dân Chủ (thành lập 1824). Dưới góc nhìn văn hóa, Cộng Hòa được xem là đảng bảo thủ (Center Right), Dân Chủ được xem là đảng cấp tiến (Center Lept). Chính trị Mỹ còn mang đậm màu sắc vùng miền : Các tiểu bang miền Nam và vùng núi Rocky ủng hộ bảo thủ, các tiểu bang miền Đông Bắc và vùng duyên hải miền Tây thiên về cấp tiến. Bảo thủ, cấp tiến, vùng miền, tranh cử..., ở Mỹ, luôn tạo ra những phản biện để chắt lọc ưu việt tinh hoa, tạo ra cạnh tranh để lựa chọn nhân tài cống hiến được nhiều cho đất nước.

Nước Mỹ đã hoàn tất những việc đại sự của quốc gia trong thế kỷ 19. Năm 1800 thành lập Washington D.C (trước đó, thủ đô ở New York rồi Philadelphia). Năm 1860 giải phóng 4 triệu nô lệ gốc Phi. Năm 1867 mua Alaska của Nga, hoàn tất lãnh thổ lục địa. Năm 1898 sát nhập Hawaii, Guam, Puerto Rico, hoàn tất lãnh thổ trên biển. Cùng với việc hoàn tất lãnh thổ, cuối thế kỷ 19 Hoa Kỳ cũng thế chỗ của Anh, trở thành nước công nghiệp hàng đầu thế giới.

Vai trò “cảnh sát trưởng quốc tế” của Mỹ trong thế kỷ 20 lịch sử đã minh chứng, không cần bàn cãi. Vậy liệu Mỹ có giữ được vai trò ấy đối với thế giới trong thế kỷ 21 ? Và nếu có sự đổi ngôi thì quốc gia nào sẽ thay thế Mỹ ?

Hiện nay, xu hướng ủng hộ cho một “thế giới không cực” và xu hướng ủng hộ cho một “thế giới đơn cực” đều có những lý lẽ tích cực. Ở góc độ nhìn nhận thế giới theo tiến trình phát triển đi lên thì một thế giới không cực là bức tranh toàn cầu hoàn mỹ về cuộc sống bình đẳng, bác ái. Nhưng nếu xem xét qui luật sinh tồn theo chu kỳ thì thế giới đơn cực mới có thể tránh cho loài người những thảm họa chiến tranh và sự xâu xé tranh giành cục bộ.

Anh, Đức, Pháp, Nhật trong những thế kỷ trước cũng đã từng ganh đua với Mỹ về vị thế toàn cầu. Tuy nhiên, những điều kiện cần và đủ cho vị trí “cảnh sát trưởng quốc tế” của những nước trên là không thể, ít nhất trong thế kỷ này. Về lâu dài, có lẽ chỉ có 2 quốc gia có thể làm cho Mỹ phải nhường ghế, đó là Nga và Trung Quốc. Tuy nhiên, cả Nga và Trung Quốc cùng hoàn cảnh nội tình và ngoại tình đang tình trạng như “gà mắc tóc”.

Tổng thống Putin mỗi ngày càng lộ rõ hình bóng của Stalin phiên bản thế kỷ 21. Hiện nước Nga vẫn chưa thoát khỏi cái vỏ bọc lưỡng cư khi tư bản, lúc xã hội chủ nghĩa. Cưỡng chiếm Crưm, tiếp tay cho phiến quân miền Đông Ukraine, âm thầm ủng hộ Bắc Triều Tiên, né tránh cái lưỡi bò của Trung Quốc ở biển Đông, áp đặt truyền thông trong nước..., đang làm cho xứ sở bạch dương ngày càng bị cô lập trong những cơn bão tuyết mùa đông của thế kỷ này.

 Trung Quốc, với những hành xử của Tập Cận Bình sau khi nắm trọn quyền lực làm người ta liên tưởng tới hình bóng Mao Trạch Đông của thập kỷ 1960, 1970. Cuộc chiến “diệt cả ruồi và hổ”, “sau hổ là rồng” thực chất là cuộc thanh trừng nội bộ. Bởi nếu chỉ mục đích chống tham nhũng thì “hổ”, “ruồi”, “rồng” đang hiện diện trong bộ máy cầm quyền hiện nay hơn 90%. Vậy, nếu sòng phẳng với tham nhũng thì không còn ai giúp Tập để Bình. Nguyên nhân sâu xa là “rồng” Giang Trạch Dân, “hổ” Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai..., đã không ủng hộ, thậm chí phản đối chiếc ngai mà Tập đang ngồi. Chống tham nhũng ở trong nước để mỵ dân, bành trướng biển Đông để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan là hai cái huyệt nhạy cảm nhất của dân Trung Hoa hiện nay mà Tập Cận Bình đang cùng lúc điểm vào.

Bởi vậy, chỉ khi nào Nga và Trung Quốc có được sự ổn định và phát triển trong không gian tự do, dân chủ, minh bạch, công bằng, văn minh như nước Mỹ thì mới có thể có kịch bản đổi ngôi trong thế giới đơn cực.

Cụm từ “vận mệnh hiển nhiên” được đảng dân chủ sử dụng phổ biến từ 1840. Từ đó, ý nghĩa của nó không còn hạn hẹp chỉ trong niềm tin mở rộng lãnh thổ như buổi bình minh của Hoa Kỳ, mà rộng ra, cao thêm, bao hàm Đức Tính Mỹ, Sứ Mệnh Mỹ, Vận Mệnh Mỹ. Trong đó, Sứ Mệnh Mỹ đối với hòa bình, dân chủ, tự do, thịnh vượng trên thế giới được xem là cốt lõi. Với vai trò đó, “lợi ích của nước Mỹ”, đôi khi không còn thuần giá trị vật chất cụ thể mà còn là giá trị gián tiếp của chân lý “vận mệnh hiển nhiên”.
      
Mỹ không ưu tiên lựa chọn đối đầu với Nga qua sự kiện đang diễn ra ở Ukraine, đối đầu với Trung Quốc bởi những tranh chấp trên biển Đông và biển Hoa Đông, nhưng “lợi ích của nước Mỹ” ở Đông Âu và Đông Á sẽ được ưu tiên bảo vệ theo cách của Mỹ, rất Mỹ.

Động thái mới nhất của Mỹ ở Đông Á là chuyến viếng thăm Việt Nam của đại tướng Martin E Dempsay, Tổng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ từ ngày 14 đến ngày 17 tháng 8 năm 2014. Sự xuất hiện của Martin E Dempsay là chỉ dấu cho thấy việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương, ký kết TTP, cải thiện nhân quyền..., có thể cùng lúc được Mỹ và Việt Nam giải quyết trước năm 2015, theo kiểu “ông giơ chân giò, bà thò chai rượu”.

Phải chăng mối quan hệ tất yếu Việt Nam và Hoa Kỳ cũng là “Vận Mệnh Hiển Nhiên” của chung hai nước trong thế kỷ 21 ?

SÀI GÒN 2014 – N.Q.T




Không có nhận xét nào: