NGÔ QUỐC TÚY
“Hoa Kỳ” là cái tên
Trung Quốc đặt cho nước Mỹ từ giữa thế kỷ 19, khi họ thấy lá cờ của quốc gia
này rất nhiều sao. Những ngôi sao trên cờ Mỹ như những bông hoa nở trên nền trời.
“Hoa Kỳ” là từ ghép của “Hoa”(sao) và “Cờ” (kỳ). Có lẽ từ góc nhìn văn hóa chữ
viết tượng hình nên người Hán mới nghĩ ra cái tên mỹ (đẹp) như thế !
“Vận mệnh hiển nhiên”
(Mani Fest Dastiny)
Hoa Kỳ có 50 tiểu
bang và 14 vùng lãnh thổ khác rải rác trên biển Caribbe, biển Thái Bình Dương.
Với diện tích 9,83 triệu km2, dân số 316 triệu người, Mỹ là nước có qui mô về lãnh
thổ, dân cư đứng thứ 3 thế giới. Nhưng sự khác biệt của nước Mỹ không phải ở diện
tích và dân số mà là sự đa dạng của địa hình, khí hậu, thời tiết, sắc tộc, tín
ngưỡng... Có người ví thiên nhiên và văn hóa đất nước này như nồi súp, nồi lẩu
đủ mùi vị, sắc màu, hấp dẫn mọi gu ẩm thực của loài người.
Bình quân GDP của Mỹ 10 năm đầu thế kỷ 21 khoảng 15 nghìn tỷ
USD một năm, chiếm 23% GDP của cả thế giới. Thập kỷ kinh tế Mỹ thăng hoa gần
đây nhất là thập kỷ 1991 – 2001, thập kỷ 2 nhiệm kỳ của tổng thống Bill Clinton.
Trong top 10 tỷ phú thế giới năm 2013, Mỹ chiếm một nửa (Biill Gates, Warren
Buffet, Larry Ellison, Charles Koch, David Koch). Nhưng điều quan trọng hơn cả
là nền kinh tế số 1 thế giới này tồn tại và phát triển trên nền móng vững chắc suốt
hàng trăm năm nay.
Sức
mạnh Mỹ được thử thách qua những cơn địa chấn toàn cầu như chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914 – 1918), khủng khoảng kinh tế thế giới (1936 – 1939), chiến
tranh thế giới lần thứ 2 (1939 – 1945), chiến tranh lạnh (1950 – 1990), suy
thoái kinh tế toàn cầu (2008). Nước Mỹ thời kỳ hậu công nghiệp, 85% dân số sinh
sống trong 361 thành phố và thị trấn, dịch vụ chiếm 75% tổng sản phẩm nội địa,
hiệu suất lao động cao nhất thế giới... Mỹ còn được xem là vương quốc của máy
bay và xe hơi, bình quân 800 xe hơi trên 1000 dân. Nền kinh tế thị trường phân
cấp xã hội Mỹ ra các thành phần (theo tiêu chí Mỹ) : Thượng lưu (1%), trên
trung lưu (15%), trung lưu (33%), nghèo (13%), dưới nghèo (12%). Tuy nhiên, với
chính sách thuế và chế độ an sinh rất nhân bản nên người giàu ở Mỹ tuy chỉ chiếm
1% nhưng họ phải đóng tới 40% tiền thuế cho ngân sách quốc gia còn người nghèo
và thất nghiệp lại được nhận các khoản trợ cấp đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu.
Bởi vậy, đa số dân lao động ở các nước đang phát triển mơ được sống như diện
“dưới nghèo” ở đất Mỹ. Thị trường chứng khoán phố Wall ở Manhattan hiện vẫn giữ
vai trò hàn thử biểu của nền kinh tế thế giới. Có lẽ trong thế kỷ 21, không thể
có quốc gia nào vượt Mỹ về kinh tế.
Chính sách ngoại giao của Mỹ luôn nhất quán từ ngày lập quốc.
Người Mỹ không rao giảng “đa phương hóa, đa dạng hóa”, “làm bạn với tất cả các
nước”, “bỏ qua quá khứ hướng tới tương lai”..., nhưng với quốc gia nào Mỹ cũng
có thể chơi được, chơi theo kiểu khác nhau, chơi theo kiểu Mỹ. Trong số hơn hai
trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ có 5 nước là Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Bhutan,
Sudan, Iran chưa có ngoại giao chính thức với Mỹ. Sau chiến tranh thế giới lần
thứ 2, Mỹ nhanh chóng thiết lập ngoại giao và trở thành đồng minh với cựu thù
như Đức, Ý, Nhật... Sau vụ khủng bố bằng máy bay vào Trung tâm thương mại ở New
York và Lầu năm góc ở Washington D.C ngày 11 tháng 9 năm 2001 của tổ chức khủng
bố là người hồi giáo Al-Qaeda làm gần ba nghìn người thiệt mạng, Mỹ vẫn giữ mối
quan hệ bình thường với các nước hồi giáo như Indonexia, Ả Rập Saudi, Pakixtan...,
người theo đạo Hồi vẫn sống yên bình trên nước Mỹ. Những phát ngôn, tuyên bố về
ngoại giao của Mỹ rất ngắn gọn, cụ thể, hàm chứa một thông điệp mạnh mẽ, dứt
khoát và ấn tượng nhưng không bao giờ có những từ ngữ mạt sát, ngông cuồng, qui
chụp hay vồ vập “viển vông”.
Quân đội Mỹ hiện có 1,4 triệu quân nhân cùng 700 nghìn nhân
viên dân sự làm thuê trong nghành công nghiệp quốc phòng. Với 770 căn cứ quân sự,
trên hành tinh này chỉ trừ Nam Cực là không có sự hiện diện của quân đội Mỹ.
Ngoài ra, Mỹ còn có những liên minh quân sự đặc biệt với Anh, Nhật, Australia, Israel,
New Zealand..., là những nước đại diện cho lợi ích chiến lược toàn cầu của Mỹ ở
châu Âu, châu Á, Trung Đông, Thái Bình Dương. Liên minh quân sự Khối Bắc Đại Tây
Dương (NATO), thành lập 1949, dưới sự chỉ huy của tướng Mỹ là liên minh quân sự
lớn nhất thế giới. Trên biển, hiện Mỹ có 11 hàng không mẫu hạm và chuẩn bị bổ
sung một số siêu hàng không mẫu hạm, tàu ngầm, thủy lôi..., có khả năng hiện diện
tác chiến khắp “bảy phần nước” của trái đất. Trên trời, Mỹ có hệ thống vệ tinh,
máy bay trinh sát, máy bay ném bom hiện đại, luôn thường trực quan sát, thu thập
thông tin và không kích chính xác bất cứ nơi nào trên thế giới.
Trong
suốt thế kỷ 20 và 14 năm đầu thế kỷ 21, trừ những cuộc rút quân có tính toán chiến
lược toàn cầu của một cường quốc thế giới như ở bán đảo Triều Tiên, miền Nam Việt
Nam còn hầu như cuộc chiến nào Mỹ, hoặc phe đồng minh có Mỹ tham gia cũng giành
chiến thắng. Cuộc chiến của Mỹ ở Đông Nam Á từ 1964 dưới thời tổng thống Lyndon
B Johnson thực chất là cuộc chiến thay thế cho sự đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc
– Liên Xô thời chiến tranh lạnh. Những cuộc chiến của quân đội Mỹ được vũ trang
những khí tài, công nghệ hiện đại, được huấn luyện công phu, được chỉ huy sáng
suốt, tự tin, luôn tạo ra những ấn tượng đặc biệt. Những cuộc chiến do Mỹ và
NATO phối hợp gần đây, ở vùng Vịnh (1991), Kosovo - Nam Tư (1999), Afghanistan (2001), Iraq (2003)..., đặc biệt
là cuộc đột nhập vào sào huyệt của tổ chức khủng bố Al-Qaeda ở thị trấn Bilal –
Pakistan ngày 2 tháng 5 năm 2011, tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden như
thể diễn ra trong phim trường Hollywood. Ngân sách dành cho quốc phòng của Mỹ
thập niên đầu thế kỷ 21 bình quân gần 550 tỷ USD một năm, khoảng 1755 USD tính
theo đầu người, gấp 10 lần trung bình thế giới.
Vị
thế cường quốc của Mỹ không chỉ căn cứ vào tiềm lực quân sự , kinh tế mà còn thể
hiện ở cách ứng xử và can thiệp của quốc gia này vào những xung đột, tranh chấp
trên thế giới như vai trò của một “cảnh sát trưởng quốc tế”. Lợi ích của Mỹ
luôn được tính toán cùng với lợi ích của các quốc gia liên quan, sòng phẳng và
minh bạch. Bởi vậy, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước xã hội chủ nghĩa
thường gán cho Mỹ cái tên “Đế Quốc”, “Sen Đầm Quốc Tế”, “Hổ Giấy”..., chứ không
thể lên án Mỹ là “Bành Trướng”, “Bá Quyền”, “Thực Dân”...
Sau
hơn ba thập kỷ thực thi thuyết “mèo đen, mèo trắng”, Trung Quốc đã có bước nhảy
ngoạn mục về GDP trung bình trên 10% một năm. Không ít người đã đưa ra dự đoán
kiểu “bom tấn” về khả năng Trung Quốc qua mặt Mỹ về vị thế siêu cường. Dự đoán ấy
không phải không có cơ sở, nếu Trung Quốc khước từ kiểu tư duy ngai vàng, thiên
tử của những thế kỷ trước, nếu Trung Quốc từ bỏ hệ thống toàn trị, nếu... Khác hẳn
với Trung Quốc, Mỹ luôn tự tin và trung thành với thuyết “Vận mệnh hiển nhiên”
(Mani Fest Dastiny) từ thế kỷ 16. Thuyết này đẻ ra Tuyên ngôn độc lập ngày 4
tháng 7 năm 1776, bộ luật nhân quyền năm 1791, với chân lý nhân bản “Tất cả con
người sinh ra đều có quyền bình đẳng...” và đương nhiên, các quốc gia cũng có
quyền bình đẳng.
Văn hóa boot cao gót, mũ cao bồi, quần Jean
Một
bộ phận thổ dân Mỹ, chủ yếu ở vùng Alaska, di cư từ châu Á sang từ 1500 năm trước.
Họ cùng với dân da đỏ bản địa tô vẽ sắc màu cuộc sống nhân gian ở miền viễn Tây
thêm phần hoang dã, sử thi. Ngày 11
tháng 11 năm 1493, Christopher Columbus, người đầu tiên của xã hội văn minh lúc
đó, xuất hiện trên vùng viễn tây, báo hiệu kỷ nguyên mới trên vùng đất xa lạ
này. Không lâu sau khi Columbus trở về , lần lượt các gương mặt sáng giá của lục
địa già thời ấy có mặt ở đây theo thứ tự : Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Hà
Lan, Thụy Điển... Người Anh tuy chậm chân nhưng chiến thuật chạy nước rút của họ
lại hiệu quả hơn. Từ năm 1674, trên đất Mỹ, người Anh chiếm ưu thế hoàn toàn so
với những quốc gia có mặt trước đó. Đến năm 1770, khoảng 3 triệu người Anh, tức
một nửa dân số nước này, đã hiện diện ở Mỹ.
Sau
khi lập nước, từ năm 1800, lãnh thổ Mỹ mở rộng thêm gần một nửa diện tích về
phía Tây , vượt qua dãy núi Appalachian và sông Mississippi. Sự hài hòa giữa văn
hóa thảo nguyên châu Âu và văn hóa đồng cỏ miền viễn Tây nhanh chóng trở thành
đặc trưng của linh hồn Mỹ.
“Cao
bồi” chuyển ngữ từ tiếng Tây Ban Nha “Vaquero” để chỉ những người chuyên cưỡi
ngựa, chăn dắt gia súc. Một cao bồi đích thực phải biết quăng giây, cưỡi ngựa
không yên và cưỡi được cả bò tót. Cao bồi thường làm việc tới 18 tiếng một ngày
cùng bầy gia súc. Bản năng của cao bồi rất gần với phẩm chất tự nhiên của miền
viễn tây rộng lớn, quạnh hiu, kiêu bạc, đa tình. Cao bồi gắn với cuộc sống xê dịch,
màn trời chiếu đất, gần như độc mã, đơn phương, cô đơn giữa bất tận đồi núi và
bầu trời. Cao bồi không biết sợ hãi nhưng cũng nặng lòng trắc ẩn trước những kẻ
yếu thế hơn mình. Cao bồi nổi tiếng nhất nước Mỹ là Buffalo Bill Cody (1846 –
1917). Cody đã trở thành hình mẫu của điện ảnh, âm nhạc, hội họa và là thần tượng
của tuổi trẻ, của phái đẹp từ thế hệ này qua thế hệ khác...
Trang
phục nổi bật nhất của cao bồi là đôi boot cao gót và chiếc mũ nỉ vành rộng. Đôi
boot bằng da, có trang trí hoa văn và đính khuy cầu kỳ, gân guốc, vững chãi, thể
hiện sự cao ngạo, bụi bặm, phong sương, lỳ lợm nhưng vẫn toát lên vẻ cao sang
hoang dã của một quí ông. Chiếc mũ vành rộng, bẻ cong, toát lên khí chất phóng
khoáng, ga-lăng, lãng tử có sức hấp dẫn, lôi cuốn phái đẹp một cách tinh tế. Một
đôi boot và một chiếc mũ cao bồi làm đúng qui cách và chất lượng như nguyên bản,
theo thời giá hiện nay khoảng 2500 USD (tương đương 55 triệu VND). Cho đến đầu
thế kỷ 21, thời trang theo phong cách cao bồi vẫn là mốt của thời trang thế giới.
Cơn
sốt vàng 1848 – 1849 cùng với những cặp đường ray hỏa xa len lỏi dần về miền viễn
tây, 40 triệu con bò bison bị giết để lấy thịt và da, gây ra thảm họa cho không
gian sinh tồn của thổ dân Mỹ, cũng là nguy cơ làm mất cân bằng hệ sinh thái ở
nơi này. Từ gần 200 năm trước, Mỹ đã chủ trương qui hoạch, xây dựng hàng trăm
công viên quốc gia tạo ra những vành đai pháp lý để bảo tồn thiên nhiên, ngăn
chặn hành vi tự sát của chính con người trong xã hội văn minh. Điều đó cũng chứng
tỏ tầm nhìn Mỹ, văn hóa Mỹ rất ưu ái đối với thiên nhiên, đối với quá khứ.
Văn
hóa Mỹ đương đại vẫn thừa hưởng hồn cốt văn hóa viễn tây thời hoang dã nói
riêng và văn hóa truyền thống nói chung. Nó không chỉ thể hiện ở thời trang, ẩm
thực, âm nhạc, điện ảnh mà còn thể hiện ở tính cách của cư dân nước này. Thực dụng,
lạnh lùng, sòng phẳng, “phớt ăng-lê”..., nhưng lại rất hào hiệp, nhân bản là những
phẩm chất chung nhất của người Mỹ.
Người
Mỹ khoái hội hè, tôn trọng tâm linh nhưng không mê muội, sa đà vào những loại
tín ngưỡng kiểu vàng mã. Hàng năm, dân Mỹ đón các ngày lễ tết lớn như : New
Year (tết dương lịch), Presidents Day (lễ tổng thống), Memirial Day (lễ chiến sỹ
trận vong), Christmas (lễ giáng sinh), Thanksgiving (lễ tạ ơn),... Đặc trưng
các lễ hội ở Mỹ là chơi hết mình, không lụy nghi thức. Mỗi ngày dân Mỹ uống 150 triệu ly cà fe và trung bình mỗi người một
năm uống 82 lít bia. Nhưng đa số dân Mỹ chỉ uống bia Mỹ (bia Budweiser). Bia
Budweiser chiếm 50% thị trường Hoa Kỳ. Người Mỹ thường uống rượu trước bữa ăn.
Ba loại nước giải khát được ưa thích nhất ở Mỹ là cocacola, sữa, nước cam. Món
ăn nhanh ở Mỹ ngày càng phát triển dẫn đến hội chứng nghiện MC Donald. Bóng
chày, bóng rổ, bóng bầu dục..., được người Mỹ ưa chuộng chỉ vì các môn bóng này
có nhiều bàn thắng.
Trong
giao tiếp, người Mỹ không cầu kỳ, điệu đà, hiểu người, biết ta, luôn tôn trọng
đối tác dù là thù hay bạn. Chuyến thăm của tổng thống Mỹ Bill Clinton đến Việt
Nam, khi ông còn đương chức, trong buổi nói chuyện tại đại học quốc gia Hà Nội,
ông đã nhắc đến Truyện Kiều, hình ảnh tổng thống Barac Obama trong các buổi họp
báo hay tiếp đón các nguyên thủ quốc gia không hoa tươi, nhẹ thủ tục hiếu hỉ...,
thể hiện rất rõ những giá trị Mỹ trong xã hội văn minh.
Giấc mơ “cờ hoa” và “thế giới đơn cực”
Trải
qua 3 cuộc chiến tranh lớn nhất trong thế kỷ 20 (chiến tranh thế giới lần 1, lần
2, chiến tranh lạnh), nước Mỹ là cường quốc duy nhất tương đối ổn định về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mỹ chẳng những vẫn tồn tại, phát triển mà còn giữ
vững được vai trò số 1 thế giới, như thể “vận mệnh hiển nhiên” ứng nghiệm, giao
phó cho xứ sở cờ hoa này. Được vậy là do văn hóa thể chế, chính trị của nước Mỹ
đạt tới những giá trị đỉnh cao của thời đại. Giá trị ấy tuy chưa phải là vàng
son, kinh điển, càng không phải là mẫu mực cho mọi quốc gia, nhưng nó kích hoạt
được năng lượng cộng hưởng của 3 yếu tố cốt lõi là thiên thời, địa lợi, nhân
hòa, tạo nên vương miện cho xứ sở cờ hoa.
Hoa
Kỳ là quốc gia cộng hòa lập hiến với nền dân chủ đại nghị : Lập pháp thuộc quyền
Quốc hội (lưỡng viện). Tư pháp thuộc quyền Tối cao pháp viện. Hành pháp thuộc
quyền Tổng thống. Chế độ tam quyền phân lập tạo ra sự công khai minh bạch, hạn
chế tối đa sự lạm dụng của bộ máy nhà nước, đúng nghĩa “nhà nước của dân, do
dân và vì dân”. Hạ viện có 435 ghế, chia theo tỷ lệ dân số của mỗi bang. Tối
cao pháp viện gồm 9 thành viên, phục vụ cả đời, trừ trường hợp thành viên từ chức
hoặc chết. Nhiệm kỳ tổng thống 4 năm, đương kim tối đa 2 nhiệm kỳ. Lịch sử
chính trị Hoa Kỳ là lịch sử hoạt động của đảng Cộng Hòa (thành lập 1854) và đảng
Dân Chủ (thành lập 1824). Dưới góc nhìn văn hóa, Cộng Hòa được xem là đảng bảo
thủ (Center Right), Dân Chủ được xem là đảng cấp tiến (Center Lept). Chính trị
Mỹ còn mang đậm màu sắc vùng miền : Các tiểu bang miền Nam và vùng núi Rocky ủng
hộ bảo thủ, các tiểu bang miền Đông Bắc và vùng duyên hải miền Tây thiên về cấp
tiến. Bảo thủ, cấp tiến, vùng miền, tranh cử..., ở Mỹ, luôn tạo ra những phản
biện để chắt lọc ưu việt tinh hoa, tạo ra cạnh tranh để lựa chọn nhân tài cống
hiến được nhiều cho đất nước.
Nước
Mỹ đã hoàn tất những việc đại sự của quốc gia trong thế kỷ 19. Năm 1800 thành lập
Washington D.C (trước đó, thủ đô ở New York rồi Philadelphia). Năm 1860 giải
phóng 4 triệu nô lệ gốc Phi. Năm 1867 mua Alaska của Nga, hoàn tất lãnh thổ lục
địa. Năm 1898 sát nhập Hawaii, Guam, Puerto Rico, hoàn tất lãnh thổ trên biển.
Cùng với việc hoàn tất lãnh thổ, cuối thế kỷ 19 Hoa Kỳ cũng thế chỗ của Anh, trở
thành nước công nghiệp hàng đầu thế giới.
Vai
trò “cảnh sát trưởng quốc tế” của Mỹ trong thế kỷ 20 lịch sử đã minh chứng,
không cần bàn cãi. Vậy liệu Mỹ có giữ được vai trò ấy đối với thế giới trong thế
kỷ 21 ? Và nếu có sự đổi ngôi thì quốc gia nào sẽ thay thế Mỹ ?
Hiện
nay, xu hướng ủng hộ cho một “thế giới không cực” và xu hướng ủng hộ cho một “thế
giới đơn cực” đều có những lý lẽ tích cực. Ở góc độ nhìn nhận thế giới theo tiến
trình phát triển đi lên thì một thế giới không cực là bức tranh toàn cầu hoàn mỹ
về cuộc sống bình đẳng, bác ái. Nhưng nếu xem xét qui luật sinh tồn theo chu kỳ
thì thế giới đơn cực mới có thể tránh cho loài người những thảm họa chiến tranh
và sự xâu xé tranh giành cục bộ.
Anh,
Đức, Pháp, Nhật trong những thế kỷ trước cũng đã từng ganh đua với Mỹ về vị thế
toàn cầu. Tuy nhiên, những điều kiện cần và đủ cho vị trí “cảnh sát trưởng quốc
tế” của những nước trên là không thể, ít nhất trong thế kỷ này. Về lâu dài, có
lẽ chỉ có 2 quốc gia có thể làm cho Mỹ phải nhường ghế, đó là Nga và Trung Quốc.
Tuy nhiên, cả Nga và Trung Quốc cùng hoàn cảnh nội tình và ngoại tình đang tình
trạng như “gà mắc tóc”.
Tổng
thống Putin mỗi ngày càng lộ rõ hình bóng của Stalin phiên bản thế kỷ 21. Hiện
nước Nga vẫn chưa thoát khỏi cái vỏ bọc lưỡng cư khi tư bản, lúc xã hội chủ
nghĩa. Cưỡng chiếm Crưm, tiếp tay cho phiến quân miền Đông Ukraine, âm thầm ủng
hộ Bắc Triều Tiên, né tránh cái lưỡi bò của Trung Quốc ở biển Đông, áp đặt truyền
thông trong nước..., đang làm cho xứ sở bạch dương ngày càng bị cô lập trong những
cơn bão tuyết mùa đông của thế kỷ này.
Trung Quốc, với những hành xử của Tập Cận Bình
sau khi nắm trọn quyền lực làm người ta liên tưởng tới hình bóng Mao Trạch Đông
của thập kỷ 1960, 1970. Cuộc chiến “diệt cả ruồi và hổ”, “sau hổ là rồng” thực
chất là cuộc thanh trừng nội bộ. Bởi nếu chỉ mục đích chống tham nhũng thì “hổ”,
“ruồi”, “rồng” đang hiện diện trong bộ máy cầm quyền hiện nay hơn 90%. Vậy, nếu
sòng phẳng với tham nhũng thì không còn ai giúp Tập để Bình. Nguyên nhân sâu xa
là “rồng” Giang Trạch Dân, “hổ” Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai..., đã không ủng hộ,
thậm chí phản đối chiếc ngai mà Tập đang ngồi. Chống tham nhũng ở trong nước để
mỵ dân, bành trướng biển Đông để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan là hai
cái huyệt nhạy cảm nhất của dân Trung Hoa hiện nay mà Tập Cận Bình đang cùng
lúc điểm vào.
Bởi
vậy, chỉ khi nào Nga và Trung Quốc có được sự ổn định và phát triển trong không
gian tự do, dân chủ, minh bạch, công bằng, văn minh như nước Mỹ thì mới có thể
có kịch bản đổi ngôi trong thế giới đơn cực.
Cụm
từ “vận mệnh hiển nhiên” được đảng dân chủ sử dụng phổ biến từ 1840. Từ đó, ý
nghĩa của nó không còn hạn hẹp chỉ trong niềm tin mở rộng lãnh thổ như buổi
bình minh của Hoa Kỳ, mà rộng ra, cao thêm, bao hàm Đức Tính Mỹ, Sứ Mệnh Mỹ, Vận
Mệnh Mỹ. Trong đó, Sứ Mệnh Mỹ đối với hòa bình, dân chủ, tự do, thịnh vượng
trên thế giới được xem là cốt lõi. Với vai trò đó, “lợi ích của nước Mỹ”, đôi
khi không còn thuần giá trị vật chất cụ thể mà còn là giá trị gián tiếp của
chân lý “vận mệnh hiển nhiên”.
Mỹ
không ưu tiên lựa chọn đối đầu với Nga qua sự kiện đang diễn ra ở Ukraine, đối
đầu với Trung Quốc bởi những tranh chấp trên biển Đông và biển Hoa Đông, nhưng
“lợi ích của nước Mỹ” ở Đông Âu và Đông Á sẽ được ưu tiên bảo vệ theo cách của
Mỹ, rất Mỹ.
Động
thái mới nhất của Mỹ ở Đông Á là chuyến viếng thăm Việt Nam của đại tướng
Martin E Dempsay, Tổng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ từ ngày 14 đến ngày 17
tháng 8 năm 2014. Sự xuất hiện của Martin E Dempsay là chỉ dấu cho thấy việc dỡ
bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương, ký kết TTP, cải thiện nhân quyền..., có thể
cùng lúc được Mỹ và Việt Nam giải quyết trước năm 2015, theo kiểu “ông giơ chân
giò, bà thò chai rượu”.
Phải
chăng mối quan hệ tất yếu Việt Nam và Hoa Kỳ cũng là “Vận Mệnh Hiển Nhiên” của
chung hai nước trong thế kỷ 21 ?
SÀI GÒN 2014 – N.Q.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét