Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2014

Người Việt và bóng đá


        Đam mê, nghiện ngập, tham lam..., vốn là thuộc tính “xưa như trái đất”của con người. Có thứ gây hại như cờ bạc, rượu chè, ma túy, mãi dâm... Có thứ xúc tác thăng hoa như văn chương, âm nhạc, hội họa, ái tình...Có thứ giải trí, thư giãn như nhảy múa, du lịch, thể thao...

Trong thể thao, bóng đá chiếm ngôi vương. Hàng tuần có ngoại hạng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Đức, cúp C2, C1...Cứ hai năm lại được xem EURO hoặc World cup. Trên thế giới, túc cầu giáo hiện có cả hàng tỷ đệ tử sùng tín !
Người Việt và Bóng đá
 
Vương quốc sương mù là chiếc nôi của bóng đá hiện đại, nhưng hình hài trái bóng lại xuất hiện lần đầu tiên ở đất nước Trung Hoa cách nay 2300 năm. Nước Việt giỏi môn đá cầu từ thời vua Hùng nhưng mãi đến thời thuộc Pháp, cuối thế kỷ 19 mới được tập tành đá bóng. Sinh sau đẻ muộn, nhưng bóng đá lại quyến rũ, “gây nghiện” người Việt nhanh chóng đến không ngờ.

Đầu thập kỷ 1960, bóng đá Việt đã nổi danh châu lục, khiến dân Nhật Bản phải tìm đến Sài Gòn học hỏi. Bây giờ thì ngược lại, VFF vừa phải mời ông thầy loại tầm tầm của xứ Phù Tang sang dạy lại nghề làm bóng đá hiện đại cho người Việt. Đá bóng chưa giỏi nhưng đam mê bóng đá của người Việt thì chẳng thua kém nước nào.

Thời chiến tranh, dân miền Bắc mặc dù nghèo khó nhưng “máu” bóng đá còn hơn cả dân miền Nam sung túc. Bãi tha ma, sân kho hợp tác xã, cánh đồng sau mùa gặt..., chỗ nào có mặt bằng là thành “sân cỏ”, để đám trai làng tổ chức môn túc cầu chân đất. Những quả banh da sờn mòn, cũ kỹ của Trung Quốc vá chằng vá đụp là thứ quí hiếm mà không phải làng nào cũng có. Bọn trẻ con không có banh da thì gói lá chuối khô hoặc nướng sơ quả bưởi lên cho mềm làm bóng. Thời ấy, học sinh chỉ học một buổi, không có chuyện dạy thêm, dạy kèm, ôn tập, luyện thi khốn khổ như bây giờ nên chiều nào cũng í ới rủ rê nhau đá bóng. Chúng đá bóng quên trời quên đất, đá bóng trong mưa, đá bóng dưới trăng...Đám thanh niên có gia đình cũng không bị vợ con cấm cản, vì bóng đá chẳng những vô hại, lại hạn chế thói rượu chè, cờ bạc, ngoại tình, bồi bổ sức khỏe, tăng cường sinh lực miễn phí cho cánh đàn ông đã có vợ những lúc về “đá sân nhà” thêm phần sung mãn.

Sân Hàng Đẫy ở Hà Nội lúc bấy giờ được xem là thánh đường của bóng đá miền Bắc. Mỗi khi có đội Liên Xô, Đông Đức sang thi đấu thì cả thủ đô lên cơn sốt vé. Giá vé nhà nước và vé lậu chênh lệch mấy chục lần. Nạn vé giả, cò vé thổi giá tràn lan, không thể nào kiểm soát. Khán đài A và B chủ yếu dành cho cán bộ, viên chức cấp cao có giấy mời. Người phải mua vé chủ yếu là khán giả hạng hai, phần lớn chỉ được ngồi ở những lô sau cầu môn. Khi sân Hàng Đẫy chưa có đèn cao áp, trận đấu  diễn ra rất sớm nên xế trưa đã phải vào sân giữ chỗ trên những bệ xi  măng không số, nóng bỏng đít. Những người không mua được vé thì tụ tập quanh  những chiếc loa kim công cộng có cái miệng to ngang ngửa vành nón bài thơ, nghe tường thuật trực tiếp qua đài phát thanh . Bởi vậy, những phát thanh viên của Đài tiếng nói Việt Nam như Đình Khải, Lam Sơn, chuyên tường thuật bóng đá, chẳng cần lăng-xê cũng trở thành người nổi tiếng.


“Thể Công”, “Đường Sắt”, “ Bưu Điện”..., là những đội bóng được khán giả miền Bắc yêu mến. Những danh thủ hàng đầu của sân cỏ miền Bắc lúc bấy giờ phải kể đến hậu vệ Nguyễn Trọng Giáp, tiền vệ Phan Văn Mỵ, trung phong Cao Cường, tiền đạo Thế Anh... Tiền đạo Thế Anh còn có biệt danh Ba Đẻn, chân vòng kiềng, nhỏ con, nhưng có tốc độ nhanh như chim cắt và những pha đảo bóng khôn lường. Sau này, cũng có nhiều tiền đạo tài năng như Huỳnh Đức, Minh Chiến, Văn Sỹ Hùng..., nhưng so với Thế Anh, chẳng ai có thể qua mặt.
Bóng đá thời “đen trắng”.

Sau 1975, dân miền Bắc mới được “sờ tận tay, day tận mặt” chiếc ti vi, những chiếc ti vi đen trắng từ Sài Gòn theo tàu thống nhất ra Hà Nội. Nhưng chỉ những đại gia mới đủ tiền sở hữu riêng một chiếc ti vi. Còn đa số ti vi là sở hữu chung của công ty, xí nghiệp, trường học. Nhưng vấn đề tiếp cận truyền hình khó khăn không chỉ do thiếu ti vi mà còn do công nghệ phát sóng lạc hậu của truyền hình miền Bắc lúc bấy giờ. Diện phủ sóng hẹp, công suất yếu, máy móc cũ kỹ..., làm cho “màn ảnh nhỏ” khi mờ, khi tỏ, khi “muỗi”, khi rỗ hoa, khi rò rè, lẹc khẹc..., khiến khán giả lóa mắt, ù tai, vừa xem, vừa nghe, vừa tưởng tượng xem trên ti vi đang diễn gì, nói gì.

 Thời đó, hình hài chiếc ti vi giống y chang cái tủ chè, có bốn chân, có hai cánh để mở, khép. Người ta bảo vệ, nâng niu, chăm bẵm chiếc ti vi như một báu vật. Hàng ngày, người ta lau chùi ti vi bằng phất trần lông gà, phe phẩy nhẹ nhàng, hoặc phùng mang trợn má thổi bụi, chứ không dám mạnh tay, sợ trầy xước. Khi không sử dụng, chiếc ti vi được phủ khăn hoa, hoặc mặc áo riềm đăng ten trắng. Chỉ người chủ trong gia đình mới có quyền quyết định khi nào thì được mở, khi nào thì phải tắt ti vi. Trẻ con và những người đến xem nhờ tuyệt đối không được sờ tay vào những núm nút điều chỉnh, và luôn phải giữ khoảng cách với màn hình tối thiểu 2m để đảm bảo an toàn cho “báu vật”.

Từ khi có ti vi, khán giả miền Bắc mới được xem bóng đá quốc tế qua truyền hình. Hôm nào có lịch phát sóng bóng đá là cánh mày râu nhanh nhẩu việc nhà, cơm nước sớm để sang hàng xóm xí chỗ, nghển cổ chầu chực, chờ giờ phát sóng . Mỗi khi có bàn thắng, cao hứng mấy cũng chỉ dám ú ớ trong cổ họng, vì sợ làm phiền gia chủ.

Cơ hội được xem bóng đá nhiều nhất là sinh viên ở ký túc xá các trường đại học. Những thầy cô dạy đại học ở Hà Nội có danh tiếng lúc bấy giờ thỉnh thoảng được suất vào Sài Gòn thỉnh giảng, nhất là thầy cô các chuyên nghành khoa học xã hội. Mỗi chuyến đi như thế, thầy cô đều giắt theo chút lưng vốn còm và hết sức hà tiện khoản công tác phí và thù lao được bao cấp, để thực hiện ước mơ mua sắm những tiện nghi thời thượng như ti vi, tủ lạnh, máy giặt.... Đương nhiên, đó là chỉ những món đồ cũ, rẻ tiền. 

Thầy có ti vi là có trò đến xem. Nhà chung cư tập thể của thầy chỉ ba chục mét vuông, bếp cũng phải nấu ở hành lang nên lũ học trò phải tự thỏa thuận chia ra từng tốp nhỏ cho mỗi nhà . Nhưng xem nhờ ti vi của nhà thầy không khoái lắm vì cứ phải rón rén, nem nép, để tròn bổn phận “tôn sư trọng đạo”. Không chịu nổi cảnh xem bóng đá mà cứ phải “ngậm hột thị” như đi đưa đám ma, cánh sinh viên diện “cá biệt” nghĩ ra kế gom từng xu, hào, đồng... cùng nhau “hợp tác xã” ở những quán nước có ti vi, mua rượu đế lạc rang, trà ấm, thuốc lá cuộn..., coi như thay vé vào cửa, vừa nhâm nhi, vừa xem bóng đá, la hét thả phanh.

Nỗi lo bị vợ “thổi còi”

Nghiện xem bóng đá nhất phải là đám công chức cạo giấy văn phòng và đám nhà báo, nhà văn quốc doanh. Quanh năm ngày tháng báo cáo, thống kê, tô hồng chữ nghĩa, họp hành liên miên, bỏ phiếu bầu bán, bốc thăm hàng hóa phân phối, bình xét thi đua, vỗ tay, giơ tay, nịnh đầm, xun xoe, làm màu với tổ chức hoặc lãnh đạo cấp trên..., đã cùn mòn cảm xúc đến từng lỗ chân lông, từng tế bào. Được xem bóng đá, đám ấy như những kẻ đang bị đuối nước vớ được cọc. 

Quả thực, bóng đá cũng như cuộc đời vậy, có buồn, vui, may, rủi, thăng hoa, công, thủ, vờ vĩnh, gian lận...Mỗi trận đấu, mỗi pha bóng, mỗi cầu thủ, mỗi huấn luyện viên, đều đem lại cho người xem những cung bậc cảm xúc khác nhau. Khán giả nào cũng có quyền “mở miệng” để biểu lộ yêu, ghét, giận giữ... mà không bị kiểm duyệt, phê bình, khai trừ đảng hay cách chức, hạ bậc lương..., bảo sao không thích? 

Nhưng khổ nỗi đám viên chức cạo giấy văn phòng và đám nhà báo, nhà văn quốc doanh, đa phần bị lép vế trong gia đình vì đồng lương bèo bọt nhưng lại nặng bệnh sỹ. Đàn ông mà như thế thì vợ nào chẳng xem thường. Đã bị xem thường thì đương nhiên những đam mê sở thích riêng của chồng coi như chẳng là cái đinh gì đối với vợ, nhất là bóng đá. Những người vợ thành phố thời đó coi bóng đá như kẻ thù vì tự dưng thấy mình bị trái banh chia sẻ tình cảm, chia sẻ thời gian, chia sẻ đồng tiền bát gạo của chồng, mà lẽ ra mình có quyền hưởng trọn. Đã xảy ra không biết bao nhiêu “trận chiến” công khai, thầm lặng giữa vợ với chồng vì bóng đá. Không hiếm những đức ông chồng thành trái banh, bị vợ “đá” văng ra khỏi giường, mỗi khi xem ti vi về muộn. 

Bi hài nhất là những gia đình khá giả sắm được ti vi nhưng vợ chồng lại khác “tông” thưởng thức. Chồng thích bóng đá, vợ lại ham phim truyện hay ca nhạc. Lúc đầu còn oản tù tì, sau bốc thăm, rồi phân ngày chẵn ngày lẻ... Nhưng gay cấn nhất là những trận truyền hình trực tiếp lúc nửa đêm về sáng. Đó là thời khắc khá nhạy cảm để vợ gây sự với hàng tỷ lý do mà chồng không thể tranh cãi.

Cuối cùng, từ trải nghiệm cuộc sống, những ông chồng khôn ngoan, chỉ còn cách hữu hiệu nhất là nghĩ ra các chiêu nịnh vợ. Lòng dạ đàn bà chẳng khác gì trái banh, cứ bơm đủ hơi hám là nhẹ tênh tênh, tha hồ tung hứng.

Nếu bình về chiêu nịnh vợ thì đám viên chức cạo giấy và đám nhà báo, nhà văn quốc doanh cũng thuộc diện láu cá và nhiều thủ đoạn nhất. Bởi đám này vốn quen diễn ở nơi công sở hay trên mặt sách, báo, lại dư thời gian tán gẫu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau nên vào vai nịnh vợ thật hoàn hảo. Chỉ cần một món quà nhỏ, hay một vài hành vi chăm chỉ việc nhà, thậm chí chỉ tốn nước bọt tụng ca nhan sắc vợ là thắng cuộc. Nhiều khi thắng lớn, vừa được xem bóng đá lại thêm đĩa mồi và cút đế...

Bây giờ thời thế đổi thay, có nhà, già trẻ lớn bé mỗi người một phòng ngủ, một ti vi riêng, tha hồ mà “tự sướng”. Ngoài phố, quán cà phê nhan nhản ti vi K+, lắp thêm đèn chiếu, phông rộng ba bốn mét vuông...Nhìn cảnh ấy, ngẫm lại ngày xưa, mà nhớ mà thương, mà ứa cả nước mắt !

Ngô Quốc Túy

Không có nhận xét nào: