Có lẽ, phương tiện giao thông cá nhân trên bộ không gì bằng xe đạp. Xe đạp không tốn nhiên liệu, không gây ô nhiễm môi trường, ít tai nạn..., hơn hẳn xe máy, xe hơi, tàu cao tốc, máy bay. Xe đạp còn là loại “thực phẩm chức năng” vô hình bồi bổ gân cốt, cơ bắp, lục phủ ngũ tạng cho con người miễn phí, mà hiệu quả không ngờ. Không những thế, những phiên bản từ xe đạp thành tuk tuk, xe lôi, xích lô..., còn góp phần vơi nhẹ nỗi nhọc nhằn, vất vả của những người lao động nghèo trong cuộc mưu sinh cơm áo...
“Xe đạp ơi, đã xa rồi còn đâu”
Cuối thế kỷ 19, những chiếc xe đạp đầu tiên xuất hiện trên đường phố Sài Gòn, tiếp đến là Hà Nội. Nó như những vật thể lạ, trước con mắt của người dân ở một nước nông nghiệp lạc hậu. Thời đó, những chiếc xe ngựa, xe bò, xe trâu vẫn là phương tiện giao thông chủ yếu chở người trên bộ. Chỉ những doanh nhân, công chức giàu có, sành điệu mới đủ tiền bạc và phong độ đạp xe trên đường phố.
Xe đạp thuộc loại phát minh chuyển động cơ học đơn giản, không phức tạp như các loại máy móc công nghiệp khác, nhưng lại xuất hiện khá muộn và phải mất đúng một thế kỷ mới tương đối hoàn thiện. Năm 1790, bá tước Sivrac nảy sinh ý tưởng một loại đồ chơi bằng gỗ chuyển động nhờ lực đẩy của con người. Năm 1817, nam tước Drais (người Đức) biến ý tưởng của Sivrac thành hình hài chiếc xe có bánh tròn, đẩy bằng chân chưa có tay lái (guidon), bàn đạp (pedale). Năm 1849, Fischer (người Đức) phát minh bổ sung, lắp 2 bàn đạp vào bánh trước. Năm 1869, khung và sườn xe được làm bằng các ống thép, thay gỗ. Mỗi thập niên sau đó, các kỹ sư cơ khí lại tiếp tục hoàn thiện : Lawson sáng chế ra xích (1879); J.K Sartley thiết kế đường kính bánh trước, bánh sau bằng nhau (1885); Dunlop (Scotland) sáng tạo ra lốp hơi cao su (1887); Roberton (Anh) cải tiến càng trước, càng sau để có thể tháo, lắp 2 bánh thuận tiện (1890). Khi hình hài chiếc xe đạp hoàn chỉnh, 5 năm sau đó (1895) nó đã được thí nghiệm chuyển đổi thành xe đạp điện (chạy pin). Và suốt thế kỷ tiếp theo, con người luôn chăm chút, tân trang, “giải phẫu thẩm mỹ” cho chiếc xe nhẹ hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Riêng loại xe đạp địa hình, mãi đến năm 1973 mới được sản xuất ở Cali Fornia (Mỹ).
Xe đạp nổi danh trong các cuộc chơi thể thao lớn của thế giới với Tou de France (vòng quanh nước Pháp) đã có tuổi đời 110 năm. Cuộc đua xe đạp này ngập tràn cảm xúc cho các cua-rơ và cho cả người xem bởi những cung đường tuyệt đẹp và các cú đổ đèo ngoạn mục qua ba ngọn núi thánh của lục địa già : Pyrenecs (2.114 mét), Provence (1.909 mét), Alpes (2.645 mét).
Sang thế kỷ 21, xuất hiện các trò chơi xe đạp online hành trình 3D, để nhiều người cùng lúc được sánh vai với các tay đua chuyên nghiệp. Người tham gia cũng được trải nghiệm qua hiểm nguy, gian nan, quyết liệt, xen lẫn những khoảnh khắc thư thái, ung dung, hay vỡ òa niềm vui sướng tột cùng khi cán đích.
Ở các nước Bắc Âu hiện nay, xe đạp được xem là phương tiện giao thông ưu việt và văn minh nhất. Nghị viện các nước này có riêng một hội đồng đầy quyền lực, đại diện cho lợi ích của những công dân đi xe đạp, chuyên điều tra, nghiên cứu, đề xuất các phương án tối ưu để chính phủ thực hiện. Một số thành phố lớn ở Mỹ hình thành các bãi xe đạp công cộng được mã hóa qua thẻ cho người đăng ký sử dụng...Gần đây, Hà Nội cũng khởi động phong trào xe đạp bằng dự án “900 triệu”...
Dẫn ra như vậy, để thấy chiếc xe đạp luôn là niềm đam mê, trăn trở, gắn bó của cả nhân loại hơn hai trăm năm qua. Phải chăng, xe đạp là một trong những thành tựu văn hóa vĩ đại trên trái đất, không kém bất cứ một loại máy móc nào. Vĩ đại, bởi sự nhỏ nhắn, bình dị, thân thiện, nhân văn, bền vững, lãng mạn..., mà chắc chắn không bao giờ con người có thể rời xa, dù ai đó, đã một lần lỡ hát: “Xe đạp ơi, đã xa rồi còn đâu” !
“Em vẫn đạp xe ra phố”
Suốt nửa đầu thế kỷ 20, ở Hà Nội, với mỗi gia đình, chiếc xe đạp vẫn là tài sản lớn. Thời ấy, một chiếc xe đạp thuộc dòng Peugeot, Mercier, Foliis, Sterling, Rochers..., có giá trị ngang một căn hộ hạng trung trong khu phố cổ thủ đô.
Từ thập kỷ 1960, ở nông thôn, nhà nào khá giả mới đủ khả năng sở hữu một “con xe” Phượng Hoàng màu cánh trả của Trung Quốc hoặc chiếc Poosst của Liên Xô, hay chiếc Fofaris của Tiệp Khắc.
Quí hiếm như vậy nên xe đạp cũng được mang danh phận riêng. Mỗi chiếc xe đạp có biển số, giấy đăng ký, kèm theo bộ hồ sơ lý lịch, do đích thân Trưởng ty công an tỉnh ký. Người ta chăm sóc, bảo dưỡng chiếc xe hàng ngày. Tróc một chút sơn, gãy một cái nan hoa, tuột cái dây phanh..., là xót ruột lắm.
Mỗi chiếc xe đạp được trang bị 2 loại khóa. Khóa càng cua, lắp “chết” ở nơi tiếp giáp gióng khung đứng và 2 càng sau. Khóa dây tròng vào bánh trước. Khi không sử dụng, để khỏi hại săm, lốp và tiện lau chùi, chiếc xe đạp được treo bằng 2 cặp móc sắt đôi, một móc vào đít yên, một mắc vào ghi-đông. Gặp lúc trời mưa, đường trơn lầy, chân lội bộ, vai vác..., người và xe hoán vị ngôi thứ chủ - tớ.
Phụ tùng xe đạp như săm, lốp, xích, pê-dan, vành..., người thuộc diện biên chế nhà nước mới được mua, và mỗi năm cũng chỉ được mua một lần, một thứ do công đoàn tổ chức bốc thăm. Bởi vậy, săm vá sống vá chín, xích lộn đi lộn lại, lốp quấn chằng quấn đụp, răng đĩa, răng líp mòn vẹt..., vẫn được tận dụng tối đa. Nghề sửa chữa xe đạp phát triển. Người có nhà mặt tiền, lưng vốn khá, mở hiệu sửa chữa. Kẻ nghèo khó, chủ yếu là dân hưu trí hoặc thất nghiệp thì tự phát hành nghề bơm vá săm lốp.
Nghề bơm vá săm lốp thịnh hành đến mức đi vào ca dao : “Đầu đường đại tá vá xe. Cuối đường nghệ sỹ bán chè đậu đen”. Nhiều người chọn nghề bơm, vá săm lốp xe đạp vì mấy lẽ : Một là dễ học, dễ làm ; hai là vốn ít (Chỉ cần 1 ống bơm tay, 3 cái móc lốp, một hộp keo, vài cái kim khâu bao, miếng giấy nhám, chậu nước và vài thứ vật dụng tự chế ); ba là dễ cơ động (nếu bị công an thổi còi, hoặc mỗi khi buộc phải chạy mưa, tránh nắng); và quan trọng nhất là không thất nghiệp, vì thị trường khách đi xe đạp ngày càng phát triển, hiện tượng bất ngờ bị non hơi, thủng xăm, nổ lốp, vênh vành..., luôn xảy ra bởi phụ tùng quá đát. Tuy vậy, cũng có một số chủ xe thuộc loại “trùm sò”, thủ sẵn bơm tay, nhựa vá, cờ-lê, tô-vít, mỏ-lết..., phòng thân cho những hành trình xa, vừa tiện lợi, vừa tránh bị thợ sửa xe thấy khách lạ, là tha hồ chặt chém.
Không chỉ là phương tiện di chuyển để nhàn hạ đôi chân, tiết kiệm thời gian, đánh bóng thân phận..., xe đạp còn là “cái cần câu cơm”. Người ta “độ” xe đạp thành chiếc xe chở hàng hóa. Hàng gọn nhẹ thì chất trên gác-ba-ga, bon bon chợ nhỏ, chợ lớn. Hàng nặng, cồng kềnh thì thồ, cả người và xe cùng bộ hành vận tải.
Thời ấy có người chuyên nghề xe đạp thồ chở thóc gạo, gạch, vôi, xi măng, đất đá... Ưu điểm của xe đạp thồ là có thể đưa hàng hóa, vật liệu đến tận hang cùng ngõ hẻm. Lúc không chở hàng thì chở chủ, “nhất cử lưỡng tiện”. Tuy nhiên, để xe đạp chịu được trọng tải lớn, người ta phải gia cố thêm cọc tre hoặc sắt cây vào 2 càng trước, 2 càng sau và gióng khung đứng. Nan hoa, lốp, chân chống cũng được thay thế bằng loại phụ tùng đặc dụng.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954, 21.000 chiếc xe đạp thồ đã được huy động để vận chuyển lương thực, thực phẩm, quân trang trong vòng bán kính trên dưới 500 km. Ông Bùi Tín, trung đội trưởng một trung đội thồ đã lập kỷ lục, thồ mỗi chuyến 213 kg, suốt cung đường rừng hiểm trở từ Thanh Hóa băng qua Hòa Bình, Suối Rút, Sơn La đến Điện Biên. Dùng hàng chục ngàn chiếc xe đạp phục vụ công tác hậu cần trong một chiến dịch lớn như Điện Biện Phủ, có lẽ là hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh hiện đại của thế giới.
“Mối tình thơ thoáng như một giấc mơ”
Hai thập kỷ 1960, 1970, Hà Nội là thành phố của xe đạp và tàu điện. Âm thanh kinh coong..., leng keng..., của xe đạp và tàu điện cùng với nón lá, guốc gỗ, mũ cối, dép nhựa tiền phong, xôi lá sen, bún ốc, kem que Tràng Tiền..., đã chấm phá một thời đạm bạc, cam chịu nghèo khó, trong vắt tiếng thở dài mưu sinh, lẫn trong niềm hoan lạc mơ hồ của người dân thủ đô thời nửa quê nửa phố.
Đó là những thập kỷ, ngành công nghiệp xe đạp lên ngôi ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Xe đạp Thống Nhất, lốp cao su Sao Vàng, xích, líp Việt – Tiệp..., là những sản phẩm ma-de-in Việt Nam chất lượng cao và uy tín, không kém gì hàng ngoại từ Trung Quốc, Liên Xô, chỉ thua hàng Đông Đức, Tiệp Khắc. Tỉnh nào cũng có nhà máy sản xuất xe đạp. Nhiều mẫu mã mới ra đời, chủ yếu cách tân ở bộ khung và màu sơn : Loại khung ngang, gióng đơn, loại khung ngang gióng kép lượn, gióng kép thẳng, sơn màu cà phê sữa, xanh lá, da trời, nõn chuối... Thị trường xe đạp cứ nghiễm nhiên tự do trăm hoa đua nở, đa nguyên, bùng phát, không thể kiếm soát, khiến các nhà quản lý kinh tế và giao thông xã hội chủ nghĩa thời bao cấp mẫu mực ấy, cũng đành bất lực, làm ngơ !
Sau năm 1975, Sài Gòn trở thành nơi cung cấp xe đạp nhiều nhất cho các tỉnh miền Bắc. Hàng vạn chiếc khung xe đạp theo các đoàn tàu Thống Nhất nối đuôi nhau ra Hà Nội. Từ đó, xe đạp nội không còn là thứ của cải quí hiếm nữa, người ta lại hướng đến xe đạp cũ của Nhật thông quan qua cảng Qui Nhơn, xe đạp “hàng xách tay” của người Việt xuất khẩu lao động từ Đông Đức, Tiệp Khắc mang về.
Dù giá trị vật chất của một chiếc xe đạp ngày mỗi giảm đi, nhưng những kỷ niệm thân thương của người Việt với chiếc xe đạp thì vẫn lên giá qua từng năm tháng. So với máy bay, xe hơi, tàu cao tốc, hình ảnh chiếc xe đạp xuất hiện trong văn chương, âm nhạc, hội họa nhiều hơn cả. Các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Nhật Ánh như “Còn chút gì để nhớ”, “Mắt biếc”, “Trại hoa vàng”..., chiếc xe đạp luôn là “nhân vật” kết nối những tình cảm đời thường, hồn nhiên, trong sáng, làm cho những trang sách tuổi ten thêm lung linh, xao xuyến.
Trong ca khúc “Nhớ về Hà Nội” của Hoàng Hiệp, “Phượng Hồng” của Vũ Hoàng, “Xe đạp ơi” của Ngọc Lễ..., hình bóng của chiếc xe đạp như thể những ký ức vàng son của một thời về “những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng” mà hàng ngày “em vẫn đạp xe ra phố”, để rồi bắt gặp “mối tình thơ thoáng như một giấc mơ”... Bây giờ, rất nhiều bạn trẻ chọn du lịch Đà Lạt, đèo bòng nhau trên chiếc xe đạp đôi, để được cùng đạp, cùng dạo phố, cùng ngắm hai bờ hoa dã quì vàng rực mỗi mùa thu.
Không chỉ là phương tiện giao thông cá nhân, là phương tiện mưu sinh, du ngoạn..., với người Việt Nam, chiếc xe đạp còn như “ông tơ, bà nguyệt” kết duyên nên chồng nên vợ. Vợ chồng ca sỹ Phương Thảo – Ngọc Lễ, khi đã thành danh vẫn “nhớ khi xưa, anh chở em trên chiếc xe đạp cũ, dưới trăng khuya cùng trao chiếc hôn đầu”. Năm 2005, chàng luật sư Phạm Quốc Tuấn đã khuất phục trái tim người bạn gái Vũ Thị Dung bằng hành trình xe đạp gần 2000 cây số từ Sài Gòn ra Hà Nội để cầu hôn...
Quả thực, những trải nghiệm cuộc đời trong tình quê, tình bạn, tình yêu gắn với chiếc xe đạp vẫn mãi như vòng tròn vĩnh cửu, lăn bánh thời gian đều đặn, thong thả, bình yên, phiêu du cùng dĩ vãng !
SÀI GÒN SẮP HẠ
Ngô Quốc Túy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét