Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Nhân ngày 30/4: Sài Gòn 1995- cuộc gặp gỡ tình cờ và thú vị!

Đoàn Báo Thái Bình gặp nữ anh hùng Kan Lịch tại Quảng Bình (1995)
Đúng vào dịp 20 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1995), đoàn nhà báo Báo Thái Bình chúng tôi có chuyến nam tiến vào thành phố Hồ Chí Minh để được sống lại những thời khắc lịch sử của đất nước. Thật may mắn và tình cờ trong chuyến đi này, chúng tôi đã gặp được những nhân chứng của lịch sử. 


Buổi sáng Sài Gòn náo nhiệt trong không khí ngày lễ 30/4, trong quán cà phê nhỏ có 3 người đàn ông mặc áo lính ngồi đối diện với chúng tôi đang say sưa với những hồi ức về chiến dịch, ngày mà xe tăng số 390 của các anh tiến vào Sài Gòn. Thật bất ngờ, cơ duyên đã đưa chúng tôi đến với các anh và chúng tôi đã có cuộc trò chuyện đầy thú vị.

Ba chiến sĩ trên chiếc xe tăng ngày ấy là Vũ Đăng Toàn, nguyên chính trị viên đại đội, chỉ huy chiếc xe tăng 390, quê xã Yết Kiêu; Nguyễn Văn Tập, chiến sĩ lái xe tăng quê xã Hoàng Diệu, 2 anh cùng ở huyện Gia Lộc, Hải Dương. Người thứ ba là anh Lê Văn Phượng, quê ở thị xã Sơn Tây. 

Anh Tập kể lại, sau khi giải phóng Đồng Nai, đến đêm 28/4/1975, đơn vị anh tiếp tục tiến sâu vào Sài Gòn. Khoảng 9h30 sáng ngày 30/4, Sài Gòn đã ngớt tiếng súng, chỉ có một vài tiếng nổ yếu ớt. Khi chiếc xe tăng 390 do anh điều khiển, trong đó có anh Toàn là chỉ huy tiến đến Dinh Độc Lập, thấy chiếc xe tăng 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy đang bị kẹt ở cổng phụ của Dinh, anh Toàn đã ra lệnh: Tiến thẳng húc đổ cổng chính. Cổng Dinh kiên cố đổ sập ngay phút chốc và chiếc xe tiến thẳng vào Dinh. Anh Thận và anh Toàn từ trên xe lao xuống, anh Thận cầm cờ giải phóng tìm đường lên nóc Dinh để cắm; anh Toàn vào trong Dinh Độc Lập để dồn quân của tướng Dương Văn Minh vào một căn phòng. Còn anh Tập cầm súng theo sát để yểm trợ cho anh Thận.

Khi vào Dinh Độc Lập vào lúc 10h45 phút, đến 11h, quân đội ta đã tiến vào rất đông ở Dinh. Không một tiếng súng, đến đúng 11 giờ 30’ ngày 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã phải đọc lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân giải phóng tại Đài phát thanh Sài Gòn.

Sau khi đất nước thống nhất hơn một năm sau, anh Nguyễn Văn Tập xuất ngũ trở về Hải Dương quê anh. Sinh con trai đặt tên là Kết, để ghi nhớ cái tên Tập Kết cũng là để nhớ thời gian vào giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, gia đình đoàn tụ. Cũng như anh Nguyễn Văn Tập, anh Vũ Đăng Toàn cũng về quê làm những công việc của nhà nông như bao nông dân khác. Còn pháo thủ Lê Văn Phượng kể, anh về quê Sơn Tây làm nghề cắt tóc.

Các anh đều rất háo hức và xúc động bởi đây là lần đầu tiên sau 20 năm giải phóng mới có cơ hội được trở lại Dinh Độc Lập để thăm lại nơi mà các anh và đồng đội đã ghi một dấu ấn vào lịch sử đất nước.

Cũng trong dịp này, bức ảnh chụp chiếc xe tăng 390 húc đổ Dinh Độc Lập (mà không phải là chiếc 843 như ở Việt Nam công bố) do nữ  phóng viên chiến trường Pháp Phrăng-xoa Đơ-mun-dơ chụp đã chính thức được công bố.

Bốn chiến sĩ trên chiếc xe tăng 390 

Tuy nhiên, trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, 3 chiến sĩ trên chiếc xe tăng 390 hôm ấy không khỏi băn khoăn day dứt khi mà trong suốt 20 năm qua, vẫn còn một người đồng đội chưa gặp lại được, đó chính là pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên, quê ở Nghệ An. Những năm ấy phương tiện liên lạc rất khó khăn nên anh Ngô Sỹ Nguyên bị “mất tích”. Cho đến một ngày trên báo chí có đăng tin tức về anh. Trong một buổi học, con trai anh nói với cô giáo một thông tin bất ngờ rằng chính bố em, người đang làm nghề lái xe lam, là người trên chiếc xe tăng 390 và chính chiếc xe này mới là chiếc xe tiến vào Dinh Độc Lập. 

Trong chuyến đi này, trên đường trở ra Bắc, trong một quán cơm nhỏ ven đường Quốc lộ 1 tại Quảng Bình, cũng tình cờ, chúng tôi có cuộc gặp gỡ với 2 người anh hùng, đó là nữ anh hùng Kan Lịch và anh hùng Thái Văn A.

Chị Kan Lịch sinh năm 1943, quê tại thị trấn A Lưới, tỉnh Thừa Thiên- Huế, người dân tộc Pa Cô. Chị được phong danh hiệu Anh hùng LLVT năm 1967, là một trong những nữ anh hùng lực lượng vũ trang đầu tiên trên dải Trường Sơn. Trò chuyện với chúng tôi khi ấy chị mới 52 tuổi nhưng nắng gió và lam lũ cuộc đời đã khiến nữ anh hùng khắc khổ, già dặn bội phần. 

Còn anh hùng Thái Văn A, quê huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, chiến sĩ trinh sát trên đảo thép Cồn Cỏ, nơi chiến trường ác liệt; cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT năm 1967. Tên tuổi Thái Văn A gắn liền với đảo Cồn Cỏ anh hùng, đã đi vào thơ, văn, nhạc. Nhạc sĩ Văn An trong bài hát “Thái Văn A đứng đó” đã có những câu hát hào sảng, xúc động: “Sừng sững chòi cao trên hòn đảo nhỏ/ Như ngọn hải đăng bốn mùa sóng gió/ Thái Văn A đứng đó…/ Yêu đảo như quê giây phút chẳng rời/ Mắt dõi tầm xa canh giữ biển trời…”. 

Ngoài đời thường, anh rất giản dị, khiêm nhường khiến một nhà báo trong đoàn đã thốt lên: Cả đất nước biết đến một “Thái Văn A đứng đó”, mà Thái Văn A ngồi đây thì dường như không ai có thể ngờ được!

Trong cái chói chang của trưa nắng Quảng Bình, hình ảnh 2 người anh hùng của đời thường quá bình dị, nó khắc hẳn với hình ảnh người anh hùng của chiến tranh sừng sững trong suy nghĩ mỗi người.

Những người tôi gặp ngày ấy là những nhân chứng của lịch sử. Bước ra từ chiến tranh khốc liệt, họ lại đối mặt với cuộc vật lộn mưu sinh, nhưng cũng may mắn được cộng đồng cưu mang, giúp đỡ để có một cuộc sống ổn định. Duy chỉ có anh hùng Thái Văn A đã mất vào năm 2001. 

Họ đều là những con người bình dị, nhưng lịch sử đã lựa chọn họ để rồi có một thế hệ quên mình sống và hy sinh, để lại một dáng đứng Việt Nam “tạc vào thế kỷ”. Nhưng giá như đừng có chiến tranh, đừng có hận thù thì cũng sẽ chẳng có bên thắng hay bên thua.

Quê nhà

Không có nhận xét nào: