Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Mồng một tháng tư- Nhớ Trịnh Công Sơn

                  
                                           NHẠC- HỌA- TÌNH- THƠ 
                                     NƠI CÕI TẠM


Tác giả của sáu trăm ca khúc, ba trăm bức thư tình và vài chục giai phẩm thi, họa để đời đã rời cõi tạm cách nay đúng mười ba con giáp, hơn một phần năm chu kỳ chuyển dịch của vũ trụ. Có lẽ phải thêm nhiều năm nữa, những người yêu mến nhạc Trịnh mới có thể nguôi ngoai nỗi đau  ngày một tháng tư, của năm đầu thế kỷ 21 này.

          Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại cao nguyên Lạc Giao-Buôn Mê Thuột, nguyên quán làng Minh Hương, xã Vĩnh Trị, huyện Hương Trà, thành phố Huế. Tổ tiên ông dòng dõi Trịnh Hoài Đức, đã 14 đời sinh cơ lập nghiệp ở Huế. Họ Trịnh gốc gác ở Phúc Kiến, Trung Quốc, vốn trung thành với nhà Minh, bị nhà Thanh truy sát phải vượt biển di tản sang Việt Nam và một số nước Đông Nam Á khác, cách nay khoảng ba thế kỷ.

Những làng Minh Hương xuất hiện ở Huế và Sài Gòn thời ấy là cách gọi những cộng đồng dân cư đến từ phương Bắc. Gia đình Trịnh Công Sơn làm nghề may, thuộc hạng trung lưu nhờ những hợp đồng may quân phục cho quân đội Pháp. Năm 6 tuổi, Trịnh Công Sơn qui y ở chùa Phổ Quang với pháp danh là Nguyên Thọ. Năm 1955, bố chết vì tai nạn giao thông ở Quảng Trị, để lại cho mẹ Sơn 8 con còn nhỏ, từ đó gia đình lâm vào cảnh khó khăn.

Sau khi tốt nghiệp tú tài ở Sài Gòn, năm 1957, niềm đam mê âm nhạc bỗng nhiên trỗi dậy khi Trịnh Công Sơn thoát được lưỡi hái tử thần do một tai nạn hi hữu trên sàn tập võ, để rồi dấn thân vào định mệnh tài hoa, suốt đời đa đoan, trắc ẩn . Tác phẩm đầu tay là ca khúc “Ướt my” do nữ ca sỹ Thanh Thúy hát lần đầu, sáng tác năm 1959. Từ 1961 đến 1964, Trịnh Công Sơn học sư phạm Qui Nhơn rồi lên Bảo Lộc-Lâm Đồng dạy học.

Năm 1965, tình cờ nghe Khánh Ly hát ở hộp đêm Tulipe Rauge- Đà Lạt, Trịnh Công Sơn đã nhận diện được giọng ca cao nguyên này có thể bộc bạch được hồn cốt các nhạc phẩm của mình. Từ cuối năm 1966, Khánh Ly đã “nhập đồng” ngoạn mục vào nhạc Trịnh tại Quán Văn-Sài Gòn rồi từ đó lan tỏa khắp miền Nam, vượt biên giới sang Nhật Bản và các nước phương Tây. Cuộc tọa đàm “Trịnh Công Sơn có tội hay không có tội” sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, tại Hội văn nghệ Thừa Thiên Huế làm tổn thương không nhỏ đến mạch cảm xúc của nhạc sỹ họ Trịnh suốt 5 năm sau đó.

Khánh Ly- duyên tiền định với nhạc Trịnh
Năm 1980, Trịnh Công Sơn sáng tác lại, nhưng chủ yếu là những ca khúc kiểu “nhạc chờ” như : “Em ở nông trường anh ra biên giới”, “Ánh sáng Mạc Tư Khoa”, “Ra chợ ngày thống nhất”…May mắn hơn Văn Cao, Trịnh Công Sơn có một vài người bạn đồng môn có học và tử tế từ căn cứ trở về tiếp quản Huế bảo lãnh nên tránh được đòn thù thường xảy ra sau mỗi cuộc chiến tranh. Trịnh Công Sơn nói rằng “cái chết là sự đùa cợt sau cùng của cuộc sống”. Sự đùa cợt sau cùng của 62 năm cõi tạm, thân phận hữu hạn ấy đã để lại tình yêu vô hạn trên “cánh vạc bay”, bay mãi trong cõi vĩnh hằng.

          Nhạc Trịnh Công Sơn hình như luôn thoát ra ngoài cấu trúc bác học của âm nhạc hiện đại. Đó là những giai điệu của thiên nhiên rơi vãi như lá trút lúc tàn thu, như chim lạc gọi bầy, như cơn mưa trái mùa, như ngọn gió mộng du phiêu đãng. Nhạc Trịnh biết từ chối người vô cảm, tránh nơi ô trọc nhưng lại ủ ấm những thân phận lạc loài, câu lưu vẻ đẹp hướng thiện.

Nhạc Trịnh gặp giọng ca sơn nữ Khánh Ly chẳng khác gì duyên tiền định. Với nhạc Trịnh, Khánh Ly hát như đọc, như nói, như thở…, mộc đến không ngờ. Khánh Ly không chỉ có chất giọng phù hợp, mà phong cách, kỹ thuật thanh nhạc của ca sỹ này cũng vượt khỏi sự ràng buộc khuôn mẫu trường qui nhưng lại không sa đà, phá cách, luyến láy để phô diễn cá tính mới lạ. Điều đó lý giải vì sao ca sỹ Thanh Lam, Đàm Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm…, hát nhạc Trịnh không thành công. Chắc chắn trời sinh ra Khánh Ly chỉ để hát những ca khúc ấy. Khánh Ly đã góp phần sổ lồng, tung tẩy, đuổi hình bắt bóng cho từng nốt nhạc Trịnh lọt vào hầu hết ngõ hẹp, góc khuất tâm hồn của những người yêu nhạc khó tính nhất. Cô thôn nữ cảm được sự dạt dào, nồng nàn, hồn hậu của tình yêu đầu đời trong “Biển Nhớ”. Tuổi trung niên trải nghiệm, thẫm đẫm tình đời khi mỗi “Đêm thấy ta là thác đổ”. Thông minh, cứng cỏi như người Nhật cũng phải mềm lòng trước những nỗi buồn đẹp “Diễm Xưa”, “Hạ Trắng”, “Ngủ đi con”.

Năm 1969, Trịnh Công Sơn đoạt giải “Đĩa Vàng” ở Nhật. Năm 1979, hãng đĩa Nippo Columpi lại mời Khánh Ly sang Nhật hát nhạc Trịnh để thu băng. Một trong những luận văn xuất sắc về âm nhạc tại đại học Sorbonne Pari-Pháp cuối thể kỷ trước là của nữ sinh viên Nhật Michico về nhạc Trịnh. Lượng sức mình, Michico và cộng sự cũng chỉ giới hạn đề tài trong một phần nhạc Trịnh. Đó là luận văn “Những bài hát chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn”.

Nhà phê bình âm nhạc Frak Gerta đánh giá “ nhạc Trịnh là một nửa âm nhạc của Việt Nam”. Nhạc sỹ Thanh Tùng gọi Trịnh Công Sơn là “người Việt viết tình ca hay nhất thế kỷ”. Trịnh Công Sơn cũng là một trong số rất ít nhạc sỹ đương đại trên thế giới có tên trong Từ điển bách khoa Les Million của nước Pháp...

Nhiều người nói rằng nghe nhạc Trịnh thấy mình phải sống tử tế hơn, nhân văn hơn. Chủ nghĩa siêu thực và sắc thiền trong ca khúc của ông như nêm thêm một chút gia vị bùa mê dẫn dắt mọi người vào thế giới tâm linh để chiêm nghiệm, tự thú và sám hối mà không nhất thiết phải đứng trước Chúa Giesu hay phật tổ Như Lai. Trung tuần tháng 3 năm 2013, lần đầu tiên sau năm 1975, 8 ca khúc nổi tiếng trong Tuyển tập Da Vàng của Trịnh Công Sơn : “Cánh đồng hòa bình”, “Đồng dao hòa bình”, “Người mẹ Ô Lý”, “Nước mắt cho quê hương”, “Đôi mắt nào mở ra”, “Dựng lại người, dựng lại nhà”, “Ta thấy gì đêm nay”, “Chờ nhìn quê hương sáng chói”, được Bộ văn hóa-Thể thao-Du lịch Việt Nam cấp phép cho phổ biến. Đó là những ca khúc “vang bóng một thời”, góp phần làm nên tên tuổi nhạc sỹ họ Trịnh. Đó là những ca khúc thể hiện khát vọng của hàng triệu người Việt Nam yêu nước bỏng cháy, sẵn sàng xả thân vì Tổ Quốc nhưng cũng  thiết tha yêu tự do, hòa bình. Chứng tỏ, Chân-Thiện-Mỹ là vẻ đẹp bất diệt mà lịch sử dân tộc này phải ghi nhận, không thể chối từ !

          Thơ Trịnh Công Sơn có hai mảng riêng biệt. Đó là mảng những bài thơ độc lập và mảng những bài thơ là lời của các ca khúc. Có một nghịch lý là những bài thơ độc lập Trịnh Công Sơn chủ ý kết hôn, sinh nở thành thơ lại không hay bằng những bài thơ “ngoài giá thú” do những ca từ trong mỗi bài hát tự phối ngẫu mà thành. Nói cách khác, ca từ trong các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn cứ tự nhiên cấu tứ thành những câu thơ, bài thơ hoàn chỉnh, trong đó có những câu thơ, bài thơ tuyệt tác. Những thi phẩm tuyệt tác ấy có thêm giai điệu chắp cánh, trở thành những vệ tinh tình yêu bay mãi trong quĩ đạo cảm xúc tâm linh của loài người.

Nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát bình chú : “ Trịnh Công Sơn viết ca từ dễ như lấy chữ trong túi”. Có lẽ, lão nhạc sỹ khó tính ấy muốn ví cách Trịnh dùng chữ như Quan Vân Trường ra trận chém đầu các thượng tướng của Tào Tháo trong “Tam quốc diễn nghĩa” vậy. Với thiên tài nói chung, với Trịnh Công Sơn nói riêng, việc thật khó nhưng làm thật dễ, quả không sai! Trong một buổi nhàn đàm cùng Nguyễn Tuân, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán…, mọi người cùng tán thưởng khi Hoàng Ngọc Hiến tiến cử lời trong bài hát “Đêm thấy ta là thác đổ” của nhạc sỹ họ Trịnh là bài thơ tình hay nhất thế kỷ. Bài thơ tình hay nhất thế kỷ ấy có những câu thơ mọc ra từ trái tim tưởng như nhàu nát vì những vết thương không rõ hận thù, xát muối vào từng tế bào lứa đôi lỡ hẹn nhưng lại chênh vênh, heo hút, hư ảo một vực thẳm bao dung, một biên giới mong manh giữa hai bờ nhân loại : “Lòng tôi có đôi lần khép cửa. Rồi bên vết thương tôi quì. Vì em đã mang lời khấn nhỏ. Bỏ tôi đứng bên kia đời”.

Mảng thơ độc lập của Trịnh Công Sơn không nhiều, ít bài hay . Bản thân ông cũng không bao giờ cho mình là thi nhân. Ông thích giao du với các nhà thơ nhưng chỉ thân với những nhà thơ ông thích, trong đó có Bùi Giáng, Lữ Quỳnh, Hoàng Cầm, Nguyễn Duy, Đỗ Trung Quân… Với những gương mặt bạn thơ ấy, hẳn đoán ra tạng thơ họ Trịnh. Những bài thơ đáng kể của thi sỹ họ Trịnh là “Lệ mai”, “Chiều”, “Tư lự”… Người ta hay nhắc đến bài thơ đề tựa cho bức ảnh Trịnh Công Sơn chụp chung với Khánh Ly tháng 3 năm 1992, bên gốc cây phong trụi lá, lúc đầu xuân tuyết trắng Canada, sau 17 năm xa cách: “ Bỗng nhiên gặp lại nơi này. Những khuôn mặt cả một thời có nhau. Ngày xưa phố cổ ngọt ngào. Ngày nay xứ lạ điệu chào bỗng nhiên”. Sau khi Trịnh Công Sơn mất có cả trăm bài thơ viếng ông. Bài thơ “Cho một người nằm xuống” của Bùi Quang Thuận sau 4 năm họ Trịnh đi xa, có những câu như thể tấm lòng của cả xứ Huế gửi vào : “ Xin mây che đủ phận người. Thiên đường thấy bóng cuối trời thênh thang”.

          Cũng như thơ, tranh của Trịnh Công Sơn  không có nhiều tác phẩm đặc sắc. Có lẽ với ông, hội họa chỉ là những khoảnh khắc tài năng ngựa chứng ngoại tình. Trịnh Công Sơn có 2 lần triển lãm tranh cùng những họa sỹ tên tuổi như Đinh Cường, Trịnh Cung, Đỗ Quang Em. Một lần vào tháng 1 năm 1989 tại Nhà văn hóa Việt-Tiệp. Một lần vào tháng 1 năm 1991 tại Trang viện Con Nai Vàng-Thủ Đức. Nhiều người thích tranh Trịnh, trong đó có cả danh họa trong nước và thế giới. Nét cọ Trịnh cũng như nốt nhạc Trịnh luôn ngẫu hứng xuất thần những đường nét, cung bậc khôn lường.


Xem tranh Trịnh, cũng như nghe nhạc Trịnh, đừng hòng tưởng thưởng được những bức họa ấy bằng lý lẽ mỹ thuật trường qui. Không biết có phải vì ngưỡng mộ tài năng siêu phàm hay vì yêu mến gương mặt gầy guộc, phong sương, lãng tử có đôi mắt không rõ vui buồn sau cặp kính tròn, gọng đen mà họa sỹ nào cũng muốn vẽ chân dung họ Trịnh. Những bức chân dung Trịnh Công Sơn của Bùi Xuân Phái, Tạ Tỵ, Đinh Cường, Bửu Chí, Trịnh Cung…, chắc chắn mỗi ngày thêm giá trị, không chỉ giá trị về nghệ thuật mà còn có giá trị di cảo về thần sắc hình hài của một trong những đỉnh tài năng âm nhạc của Việt Nam thế kỷ 20.

Biết đâu, tranh Trịnh và những ký họa chân dung họ Trịnh của các họa sỹ , cũng duyên phận như tranh của Van Gogh. Danh họa Vincent Van Gogh (1853-1890), người Hà Lan, vẽ cả ngàn bức tranh nhưng chỉ bán được một bức khi ông còn sống. Sau khi mất khá lâu, tên tuổi của ông mới được mọi người biết đến.

Trịnh Công Sơn, không chỉ là hiện tượng ba trong một, ba tài năng  thi-nhạc-họa trong một con người. Chắc nhiều người còn chưa biết Trịnh Công Sơn cũng đã từng là diễn viên điện ảnh. Đó là lần ông thử sức trên màn bạc trong phim “Đất khổ” kịch bản của nhà văn Nhã Ca, đạo diễn Hà Thúc Cần. Bộ phim được hoàn thành trong 4 năm, từ 1971 đến 1974, có sự tham gia của nghệ sỹ Kim Cương. Trịnh Công Sơn vào vai một thanh niên trốn quân dịch. Bộ phim bị chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ, cấm lưu hành vì có yếu tố phản chiến. Rất may, bộ phim được một “Mạnh Thường Quân” người Mỹ, George Washnis đầu tư chi phí bảo quản, lưu giữ suốt hơn 20 năm. “Đất khổ” là một thông điệp hòa bình, lên án chiến tranh mạnh mẽ qua những khuôn hình chân thực sinh động, thuyết phục người xem. Năm 1996, phim “Đất khổ” được đề cử tham dự Liên hoan phim Á – Mỹ. Có lẽ quĩ thời gian trong ngày và quĩ thời gian trong đời không đủ để Trịnh Công Sơn bộc lộ thêm sở trường ở môn nghệ thuật thứ bảy này.

          Tháng 3 năm 2011, Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm gồm 300 bức thư tình của Trịnh Công Sơn. Nhà thơ Nguyễn Duy được tin cậy thực hiện việc biên tập. Đó mới chỉ là những bức thư tình cho một mối tình 4 năm, từ 1964 đến 1967, với nghệ sỹ Dao Ánh, con gái giáo sư Pháp văn trường Đồng Khánh, một tiểu thư thuần Huế và rất Huế. Những bản thảo thư tình viết tay ấy, Dao Ánh còn giữ nguyên từng chiếc phong bì và cả những cánh hoa, lá cỏ mà chàng trai họ Trịnh thuở xưa ép trong trang giấy.

Dao Ánh- nhân vật trong 300 bức thư tình của người nhạc sĩ tài hoa

Một tháng trước khi Trịnh Công Sơn mất, Dao Ánh từ Mỹ về và sáng nào, bà cũng đẩy xe lăn cho người tình cũ dạo phố Sài Gòn. Đã có lúc dư luận râm ran, đồn thổi những câu chuyện “bếp núc” của những người đàn bà nổi tiếng có liên quan đến đời tư của nhạc sỹ họ Trịnh. Mấy năm gần đây, báo chí rộ lên cuộc tranh luận không kém phần quyết liệt của nhiều nhân vật tên tuổi trong giới showbis Việt cũng như đại diện hai bên gia đình nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và gia đình ca sỹ Hồng Nhung về việc cô Bống có được xem là người yêu của Trịnh Công Sơn hay không? Buộc Hồng Nhung phải lên tiếng theo cách tự vệ tế nhị, khôn khéo của phái đẹp : “ Ở giữa hai chúng tôi chắc chắn có tình yêu. Nhưng tình yêu ấy như thế nào thì tôi giữ cho riêng mình”! Đó cũng là lẽ thường tình, bởi đa phần ai chẳng muốn họ Trịnh yêu mình.

Một sự thật hiển nhiên, ca sỹ nào hát nhạc Trịnh dù thành công nhiều hay ít, người phụ nữ nào tiệm cận quĩ đạo trái tim người đàn ông đa cảm, đa tình, đa sầu ấy, dù được yêu hay không yêu, cũng khiến giới truyền thông săm soi, sách báo hao tổn giấy mực. Có thể nói, người đàn bà nào thực lòng yêu Trịnh Công Sơn đều là những người đàn bà khôn ngoan, thông minh và tử tế.

Khi đã ngoại tứ tuần, Trịnh Công Sơn thường đùa rằng, lúc tỏ tình cả hai đều run, cô gái run vì trẻ quá, còn Trịnh run vì già quá. Một người bạn thân Trịnh, kể, vào năm 1996, một lần đến nhà Trịnh, ông thấy bạn mình và Vân Anh, một nhan sắc á hậu nước Việt, từ phòng ngủ bước ra. Trước khi tiếp bạn, Trịnh trở lại phòng ngủ lấy chiếc khăn màu hổ phách sọc đen quàng lên cổ Vân Anh và nhẹ nhàng sửa tóc cho người yêu. Chứng kiến cử chỉ chăm sóc chiều chuộng của chàng với nàng, người bạn của Sơn cứ nghĩ phen này “ván” sẽ “đóng thuyền”. Vân Anh chính là cuộc tình cuối cùng mà Trịnh Công Sơn định cưới làm vợ.

Nhưng người tình ở bên Sơn trước lúc lâm chung lại là Hoàng Anh, một cô gái trẻ, con nhà danh gia thế phiệt, hội đủ những giá trị của người phụ nữ hiện đại, dành 13 năm thanh xuân để yêu Trịnh mà chẳng đòi hỏi điều gì. Hoàng Anh cũng là người sau chót mà Trịnh Công Sơn cầm tay như để tri ân, tạ từ với ánh mắt nói bao lời vời vợi mà những kẻ ngoài cuộc chứng kiến dù tinh tế bao nhiêu cũng không thể chuyển ký tự ấy thành lời. Trịnh Công Sơn luôn trân trọng những người phụ nữ yêu mình, ông thường ghép tên người mình yêu vào ca từ bài hát. “Trời cao níu bước Sơn Khê”, “Khê” chính là cô gái tên Bích Khê ở thành phố biển Nha Trang, học cùng khóa sư phạm với Sơn ở Qui Nhơn.

Mùa hè năm 1962, đêm nào, Trịnh Công Sơn cũng cùng Bích Khê ra bãi biển Qui Nhơn, đoạn có nhà hàng Phương Mai bây giờ, để nghe sóng, thưởng trăng. “Diễm xưa” chính là Bích Diễm, chị gái của Dao Ánh. “Cây cho Lộc và cây sẽ cho hoa”, “Lộc” là cô láng giềng của Tôn Thất Văn, bạn Sơn, do thường đến thăm Văn ở Thủ Đức mà Sơn cảm mến Lộc. “Lay nhẹ Bống bồng bông. Lay nhẹ đóa Hồng Nhung”, “Bống” hay “Hồng Nhung” cùng là tên của ca sỹ Hồng Nhung…

Nhưng có một điều rất lạ là người đàn bà được dân Sài Gòn gọi là “Nữ Hoàng Chân Đất”, người chắp cánh cho nhạc Trịnh bay xa, người đàn bà kỳ bí nhất trong các “nghi án” tình sử của họ Trịnh là Khánh Ly lại không lộ diện trong ca khúc nào. Bỏ Đà Lạt về Sài Gòn, chân đất trên sàn diễn, chịu mọi thiếu thốn cực nhọc suốt 10 năm đầu hát nhạc Trịnh “không công”, hát nhạc Trịnh khắp trần gian, hát nhạc Trịnh xuyên qua hai thế kỷ, cả đời hát nhạc Trịnh, người ca sỹ gốc Hà Nội, tên thật là Nguyễn Thị Lệ Mai, có vẻ đẹp sơn cước mê hồn và giọng hát trời cho ấy thật xứng đáng được Trịnh Công Sơn tặng riêng vài bản tình ca. Hình như chưa thấy bao giờ Khánh Ly phân vân về điều đó. Có lẽ, chỉ cần vài lời bình chọn của hầu hết người yêu nhạc Trịnh suốt nửa thế kỷ qua, : “Sau Khánh Ly, không ai hát nhạc Trịnh hay hơn nữa” đã là vòng nguyệt quế tột đỉnh của tình yêu và vinh quang, không một bóng hồng nào dưới gầm trời này cạnh tranh được. Quả thực, Lệ Thu, Thái Thanh, Tuấn Ngọc, Quang Dũng, Hồng Nhung…, những ca sỹ tài năng, toàn tâm hát nhạc Trịnh nhiều năm, nhưng so với Khánh Ly vẫn là khoảng cách xa vời. Phải chăng, khoảng cách ấy đã được lập trình bởi tạo hóa nên mãi mãi những ca sỹ trần gian khác không thể xích gần.

Với cô Bống ngày nào

Nhắc đến mối quan hệ Trịnh-Khánh, nhạc sỹ thường chia sẻ, đó là “thứ tình bạn đặc biệt”, còn ca sỹ thì cho rằng “cao hơn, đẹp hơn, thánh thiện hơn tình cảm đời thường”. Nhưng bản chất tò mò của loài người đâu dễ gì buông tha lối nói ỡm ờ, nửa vời như thế, nên chàng “không nói được thì đành thôi vậy”, và nàng cũng phụ họa theo “tất cả những điều cần nói chính là những điều không bao giờ nói được bằng lời”. Với lời tỏ bày ấy, phải chăng Khánh Ly đã đại diện cho thế giới giai nhân, cho những người đàn bà yêu Trịnh khép lại nửa thế kỷ hoài nghi về những cuộc tình dâng hiến trong cuộc hội ngộ trai tài, gái sắc.

Không biết, sau khi rời cõi tạm trần gian chơi vơi nhạc-họa-tình-thơ, về chốn niết bàn vô vi cực lạc, Trịnh Công Sơn có tỉnh ra để nhớ hết tên những người đàn bà mình đã yêu hay vẫn lãng đãng mơ màng như khi còn sống : “Dòng sông suối hở mặn mà. Tấm thân trinh bạch em là, là ai?” !


 SÀI GÒN TIẾT THANH MINH 
              Ngô Quốc Túy

Không có nhận xét nào: