NHẠC- HỌA- TÌNH- THƠ
NƠI CÕI TẠM
Tác giả của sáu trăm ca khúc, ba trăm bức thư tình và vài chục giai phẩm thi, họa để đời đã rời cõi tạm cách nay đúng mười ba con giáp, hơn một phần năm chu kỳ chuyển dịch của vũ trụ. Có lẽ phải thêm nhiều năm nữa, những người yêu mến nhạc Trịnh mới có thể nguôi ngoai nỗi đau ngày một tháng tư, của năm đầu thế kỷ 21 này.
Trịnh
Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại cao nguyên Lạc Giao-Buôn Mê Thuột,
nguyên quán làng Minh Hương, xã Vĩnh Trị, huyện Hương Trà, thành phố Huế. Tổ
tiên ông dòng dõi Trịnh Hoài Đức, đã 14 đời sinh cơ lập nghiệp ở Huế. Họ Trịnh
gốc gác ở Phúc Kiến, Trung Quốc, vốn trung thành với nhà Minh, bị nhà Thanh
truy sát phải vượt biển di tản sang Việt Nam và một số nước Đông Nam Á khác,
cách nay khoảng ba thế kỷ.
Những làng Minh Hương xuất hiện ở Huế và Sài Gòn thời ấy là cách
gọi những cộng đồng dân cư đến từ phương Bắc. Gia đình Trịnh Công Sơn làm nghề
may, thuộc hạng trung lưu nhờ những hợp đồng may quân phục cho quân đội Pháp.
Năm 6 tuổi, Trịnh Công Sơn qui y ở chùa Phổ Quang với pháp danh là Nguyên Thọ.
Năm 1955, bố chết vì tai nạn giao thông ở Quảng Trị, để lại cho mẹ Sơn 8 con
còn nhỏ, từ đó gia đình lâm vào cảnh khó khăn.
Sau khi tốt nghiệp tú tài ở Sài Gòn, năm 1957, niềm đam mê âm nhạc
bỗng nhiên trỗi dậy khi Trịnh Công Sơn thoát được lưỡi hái tử thần do một tai nạn
hi hữu trên sàn tập võ, để rồi dấn thân vào định mệnh tài hoa, suốt đời đa
đoan, trắc ẩn . Tác phẩm đầu tay là ca khúc “Ướt my” do nữ ca sỹ Thanh Thúy hát
lần đầu, sáng tác năm 1959. Từ 1961 đến 1964, Trịnh Công Sơn học sư phạm Qui
Nhơn rồi lên Bảo Lộc-Lâm Đồng dạy học.
Năm 1965, tình cờ nghe Khánh Ly hát ở hộp đêm Tulipe Rauge- Đà Lạt,
Trịnh Công Sơn đã nhận diện được giọng ca cao nguyên này có thể bộc bạch được hồn
cốt các nhạc phẩm của mình. Từ cuối năm 1966, Khánh Ly đã “nhập đồng” ngoạn mục
vào nhạc Trịnh tại Quán Văn-Sài Gòn rồi từ đó lan tỏa khắp miền Nam, vượt biên
giới sang Nhật Bản và các nước phương Tây. Cuộc tọa đàm “Trịnh Công Sơn có tội
hay không có tội” sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, tại Hội văn nghệ Thừa Thiên
Huế làm tổn thương không nhỏ đến mạch cảm xúc của nhạc sỹ họ Trịnh suốt 5 năm
sau đó.
![]() |
Khánh Ly- duyên tiền định với nhạc Trịnh |
Năm 1980, Trịnh Công Sơn sáng tác lại, nhưng chủ yếu là những ca
khúc kiểu “nhạc chờ” như : “Em ở nông trường anh ra biên giới”, “Ánh sáng Mạc
Tư Khoa”, “Ra chợ ngày thống nhất”…May mắn hơn Văn Cao, Trịnh Công Sơn có một
vài người bạn đồng môn có học và tử tế từ căn cứ trở về tiếp quản Huế bảo lãnh
nên tránh được đòn thù thường xảy ra sau mỗi cuộc chiến tranh. Trịnh Công Sơn
nói rằng “cái chết là sự đùa cợt sau cùng của cuộc sống”. Sự đùa cợt sau cùng của
62 năm cõi tạm, thân phận hữu hạn ấy đã để lại tình yêu vô hạn trên “cánh vạc
bay”, bay mãi trong cõi vĩnh hằng.
Nhạc Trịnh Công Sơn hình như luôn
thoát ra ngoài cấu trúc bác học của âm nhạc hiện đại. Đó là những giai điệu của
thiên nhiên rơi vãi như lá trút lúc tàn thu, như chim lạc gọi bầy, như cơn mưa
trái mùa, như ngọn gió mộng du phiêu đãng. Nhạc Trịnh biết từ chối người vô cảm,
tránh nơi ô trọc nhưng lại ủ ấm những thân phận lạc loài, câu lưu vẻ đẹp hướng
thiện.
Nhạc Trịnh gặp giọng ca sơn nữ Khánh Ly chẳng khác gì duyên tiền
định. Với nhạc Trịnh, Khánh Ly hát như đọc, như nói, như thở…, mộc đến không ngờ.
Khánh Ly không chỉ có chất giọng phù hợp, mà phong cách, kỹ thuật thanh nhạc của
ca sỹ này cũng vượt khỏi sự ràng buộc khuôn mẫu trường qui nhưng lại không sa
đà, phá cách, luyến láy để phô diễn cá tính mới lạ. Điều đó lý giải vì sao ca sỹ
Thanh Lam, Đàm Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm…, hát nhạc Trịnh không thành công. Chắc chắn
trời sinh ra Khánh Ly chỉ để hát những ca khúc ấy. Khánh Ly đã góp phần sổ lồng,
tung tẩy, đuổi hình bắt bóng cho từng nốt nhạc Trịnh lọt vào hầu hết ngõ hẹp,
góc khuất tâm hồn của những người yêu nhạc khó tính nhất. Cô thôn nữ cảm được sự
dạt dào, nồng nàn, hồn hậu của tình yêu đầu đời trong “Biển Nhớ”. Tuổi trung
niên trải nghiệm, thẫm đẫm tình đời khi mỗi “Đêm thấy ta là thác đổ”. Thông
minh, cứng cỏi như người Nhật cũng phải mềm lòng trước những nỗi buồn đẹp “Diễm
Xưa”, “Hạ Trắng”, “Ngủ đi con”.
Năm 1969, Trịnh Công Sơn đoạt giải “Đĩa Vàng” ở Nhật. Năm 1979,
hãng đĩa Nippo Columpi lại mời Khánh Ly sang Nhật hát nhạc Trịnh để thu băng. Một
trong những luận văn xuất sắc về âm nhạc tại đại học Sorbonne Pari-Pháp cuối thể
kỷ trước là của nữ sinh viên Nhật Michico về nhạc Trịnh. Lượng sức mình,
Michico và cộng sự cũng chỉ giới hạn đề tài trong một phần nhạc Trịnh. Đó là luận
văn “Những bài hát chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn”.
Nhà phê bình âm nhạc Frak Gerta đánh giá “ nhạc Trịnh là một nửa
âm nhạc của Việt Nam”. Nhạc sỹ Thanh Tùng gọi Trịnh Công Sơn là “người Việt viết
tình ca hay nhất thế kỷ”. Trịnh Công Sơn cũng là một trong số rất ít nhạc sỹ
đương đại trên thế giới có tên trong Từ điển bách khoa Les Million của nước
Pháp...
Nhiều người nói rằng nghe nhạc Trịnh thấy mình phải sống tử tế
hơn, nhân văn hơn. Chủ nghĩa siêu thực và sắc thiền trong ca khúc của ông như
nêm thêm một chút gia vị bùa mê dẫn dắt mọi người vào thế giới tâm linh để chiêm
nghiệm, tự thú và sám hối mà không nhất thiết phải đứng trước Chúa Giesu hay phật
tổ Như Lai. Trung tuần tháng 3 năm 2013, lần đầu tiên sau năm 1975, 8 ca khúc nổi
tiếng trong Tuyển tập Da Vàng của Trịnh Công Sơn : “Cánh đồng hòa bình”, “Đồng
dao hòa bình”, “Người mẹ Ô Lý”, “Nước mắt cho quê hương”, “Đôi mắt nào mở ra”,
“Dựng lại người, dựng lại nhà”, “Ta thấy gì đêm nay”, “Chờ nhìn quê hương sáng
chói”, được Bộ văn hóa-Thể thao-Du lịch Việt Nam cấp phép cho phổ biến. Đó là
những ca khúc “vang bóng một thời”, góp phần làm nên tên tuổi nhạc sỹ họ Trịnh.
Đó là những ca khúc thể hiện khát vọng của hàng triệu người Việt Nam yêu nước bỏng
cháy, sẵn sàng xả thân vì Tổ Quốc nhưng cũng thiết tha yêu tự do, hòa bình. Chứng tỏ,
Chân-Thiện-Mỹ là vẻ đẹp bất diệt mà lịch sử dân tộc này phải ghi nhận, không thể
chối từ !
Thơ Trịnh Công Sơn có hai mảng riêng
biệt. Đó là mảng những bài thơ độc lập và mảng những bài thơ là lời của các ca
khúc. Có một nghịch lý là những bài thơ độc lập Trịnh Công Sơn chủ ý kết hôn,
sinh nở thành thơ lại không hay bằng những bài thơ “ngoài giá thú” do những ca
từ trong mỗi bài hát tự phối ngẫu mà thành. Nói cách khác, ca từ trong các nhạc
phẩm của Trịnh Công Sơn cứ tự nhiên cấu tứ thành những câu thơ, bài thơ hoàn chỉnh,
trong đó có những câu thơ, bài thơ tuyệt tác. Những thi phẩm tuyệt tác ấy có
thêm giai điệu chắp cánh, trở thành những vệ tinh tình yêu bay mãi trong quĩ đạo
cảm xúc tâm linh của loài người.
Nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát bình chú : “ Trịnh Công Sơn viết ca từ
dễ như lấy chữ trong túi”. Có lẽ, lão nhạc sỹ khó tính ấy muốn ví cách Trịnh
dùng chữ như Quan Vân Trường ra trận chém đầu các thượng tướng của Tào Tháo
trong “Tam quốc diễn nghĩa” vậy. Với thiên tài nói chung, với Trịnh Công Sơn
nói riêng, việc thật khó nhưng làm thật dễ, quả không sai! Trong một buổi nhàn
đàm cùng Nguyễn Tuân, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng
Quán…, mọi người cùng tán thưởng khi Hoàng Ngọc Hiến tiến cử lời trong bài hát
“Đêm thấy ta là thác đổ” của nhạc sỹ họ Trịnh là bài thơ tình hay nhất thế kỷ.
Bài thơ tình hay nhất thế kỷ ấy có những câu thơ mọc ra từ trái tim tưởng như
nhàu nát vì những vết thương không rõ hận thù, xát muối vào từng tế bào lứa đôi
lỡ hẹn nhưng lại chênh vênh, heo hút, hư ảo một vực thẳm bao dung, một biên giới
mong manh giữa hai bờ nhân loại : “Lòng tôi có đôi lần khép cửa. Rồi bên vết
thương tôi quì. Vì em đã mang lời khấn nhỏ. Bỏ tôi đứng bên kia đời”.
Mảng thơ độc lập của Trịnh Công Sơn không nhiều, ít bài hay . Bản
thân ông cũng không bao giờ cho mình là thi nhân. Ông thích giao du với các nhà
thơ nhưng chỉ thân với những nhà thơ ông thích, trong đó có Bùi Giáng, Lữ Quỳnh,
Hoàng Cầm, Nguyễn Duy, Đỗ Trung Quân… Với những gương mặt bạn thơ ấy, hẳn đoán
ra tạng thơ họ Trịnh. Những bài thơ đáng kể của thi sỹ họ Trịnh là “Lệ mai”,
“Chiều”, “Tư lự”… Người ta hay nhắc đến bài thơ đề tựa cho bức ảnh Trịnh Công
Sơn chụp chung với Khánh Ly tháng 3 năm 1992, bên gốc cây phong trụi lá, lúc đầu
xuân tuyết trắng Canada, sau 17 năm xa cách: “ Bỗng nhiên gặp lại nơi này. Những
khuôn mặt cả một thời có nhau. Ngày xưa phố cổ ngọt ngào. Ngày nay xứ lạ điệu
chào bỗng nhiên”. Sau khi Trịnh Công Sơn mất có cả trăm bài thơ viếng ông. Bài
thơ “Cho một người nằm xuống” của Bùi Quang Thuận sau 4 năm họ Trịnh đi xa, có những
câu như thể tấm lòng của cả xứ Huế gửi vào : “ Xin mây che đủ phận người. Thiên
đường thấy bóng cuối trời thênh thang”.
Cũng như thơ, tranh của Trịnh Công
Sơn không có nhiều tác phẩm đặc sắc. Có
lẽ với ông, hội họa chỉ là những khoảnh khắc tài năng ngựa chứng ngoại tình. Trịnh
Công Sơn có 2 lần triển lãm tranh cùng những họa sỹ tên tuổi như Đinh Cường, Trịnh
Cung, Đỗ Quang Em. Một lần vào tháng 1 năm 1989 tại Nhà văn hóa Việt-Tiệp. Một
lần vào tháng 1 năm 1991 tại Trang viện Con Nai Vàng-Thủ Đức. Nhiều người thích
tranh Trịnh, trong đó có cả danh họa trong nước và thế giới. Nét cọ Trịnh cũng
như nốt nhạc Trịnh luôn ngẫu hứng xuất thần những đường nét, cung bậc khôn lường.
Xem tranh Trịnh, cũng như nghe nhạc Trịnh, đừng hòng tưởng thưởng được những bức họa ấy bằng lý lẽ mỹ thuật trường qui. Không biết có phải vì ngưỡng mộ tài năng siêu phàm hay vì yêu mến gương mặt gầy guộc, phong sương, lãng tử có đôi mắt không rõ vui buồn sau cặp kính tròn, gọng đen mà họa sỹ nào cũng muốn vẽ chân dung họ Trịnh. Những bức chân dung Trịnh Công Sơn của Bùi Xuân Phái, Tạ Tỵ, Đinh Cường, Bửu Chí, Trịnh Cung…, chắc chắn mỗi ngày thêm giá trị, không chỉ giá trị về nghệ thuật mà còn có giá trị di cảo về thần sắc hình hài của một trong những đỉnh tài năng âm nhạc của Việt Nam thế kỷ 20.
Biết đâu, tranh Trịnh và những ký họa chân dung họ Trịnh của các
họa sỹ , cũng duyên phận như tranh của Van Gogh. Danh họa Vincent Van Gogh
(1853-1890), người Hà Lan, vẽ cả ngàn bức tranh nhưng chỉ bán được một bức khi
ông còn sống. Sau khi mất khá lâu, tên tuổi của ông mới được mọi người biết đến.
Trịnh Công Sơn, không chỉ là hiện tượng ba trong một, ba tài
năng thi-nhạc-họa trong một con người. Chắc
nhiều người còn chưa biết Trịnh Công Sơn cũng đã từng là diễn viên điện ảnh. Đó
là lần ông thử sức trên màn bạc trong phim “Đất khổ” kịch bản của nhà văn Nhã
Ca, đạo diễn Hà Thúc Cần. Bộ phim được hoàn thành trong 4 năm, từ 1971 đến
1974, có sự tham gia của nghệ sỹ Kim Cương. Trịnh Công Sơn vào vai một thanh
niên trốn quân dịch. Bộ phim bị chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ, cấm lưu hành
vì có yếu tố phản chiến. Rất may, bộ phim được một “Mạnh Thường Quân” người Mỹ,
George Washnis đầu tư chi phí bảo quản, lưu giữ suốt hơn 20 năm. “Đất khổ” là một
thông điệp hòa bình, lên án chiến tranh mạnh mẽ qua những khuôn hình chân thực
sinh động, thuyết phục người xem. Năm 1996, phim “Đất khổ” được đề cử tham dự Liên
hoan phim Á – Mỹ. Có lẽ quĩ thời gian trong ngày và quĩ thời gian trong đời
không đủ để Trịnh Công Sơn bộc lộ thêm sở trường ở môn nghệ thuật thứ bảy này.
Tháng 3 năm 2011, Nhà xuất bản Trẻ
phát hành ấn phẩm gồm 300 bức thư tình của Trịnh Công Sơn. Nhà thơ Nguyễn Duy
được tin cậy thực hiện việc biên tập. Đó mới chỉ là những bức thư tình cho một
mối tình 4 năm, từ 1964 đến 1967, với nghệ sỹ Dao Ánh, con gái giáo sư Pháp văn
trường Đồng Khánh, một tiểu thư thuần Huế và rất Huế. Những bản thảo thư tình
viết tay ấy, Dao Ánh còn giữ nguyên từng chiếc phong bì và cả những cánh hoa,
lá cỏ mà chàng trai họ Trịnh thuở xưa ép trong trang giấy.
![]() |
Dao Ánh- nhân vật trong 300 bức thư tình của người nhạc sĩ tài hoa |
Một tháng trước khi Trịnh Công Sơn mất, Dao Ánh từ Mỹ về và sáng
nào, bà cũng đẩy xe lăn cho người tình cũ dạo phố Sài Gòn. Đã có lúc dư luận
râm ran, đồn thổi những câu chuyện “bếp núc” của những người đàn bà nổi tiếng có
liên quan đến đời tư của nhạc sỹ họ Trịnh. Mấy năm gần đây, báo chí rộ lên cuộc
tranh luận không kém phần quyết liệt của nhiều nhân vật tên tuổi trong giới showbis
Việt cũng như đại diện hai bên gia đình nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và gia đình ca sỹ
Hồng Nhung về việc cô Bống có được xem là người yêu của Trịnh Công Sơn hay
không? Buộc Hồng Nhung phải lên tiếng theo cách tự vệ tế nhị, khôn khéo của
phái đẹp : “ Ở giữa hai chúng tôi chắc chắn có tình yêu. Nhưng tình yêu ấy như
thế nào thì tôi giữ cho riêng mình”! Đó cũng là lẽ thường tình, bởi đa phần ai
chẳng muốn họ Trịnh yêu mình.
Một sự thật hiển nhiên, ca sỹ nào hát nhạc Trịnh dù thành công
nhiều hay ít, người phụ nữ nào tiệm cận quĩ đạo trái tim người đàn ông đa cảm,
đa tình, đa sầu ấy, dù được yêu hay không yêu, cũng khiến giới truyền thông săm
soi, sách báo hao tổn giấy mực. Có thể nói, người đàn bà nào thực lòng yêu Trịnh
Công Sơn đều là những người đàn bà khôn ngoan, thông minh và tử tế.
Khi đã ngoại tứ tuần, Trịnh Công Sơn thường đùa rằng, lúc tỏ
tình cả hai đều run, cô gái run vì trẻ quá, còn Trịnh run vì già quá. Một người
bạn thân Trịnh, kể, vào năm 1996, một lần đến nhà Trịnh, ông thấy bạn mình và
Vân Anh, một nhan sắc á hậu nước Việt, từ phòng ngủ bước ra. Trước khi tiếp bạn,
Trịnh trở lại phòng ngủ lấy chiếc khăn màu hổ phách sọc đen quàng lên cổ Vân
Anh và nhẹ nhàng sửa tóc cho người yêu. Chứng kiến cử chỉ chăm sóc chiều chuộng
của chàng với nàng, người bạn của Sơn cứ nghĩ phen này “ván” sẽ “đóng thuyền”. Vân
Anh chính là cuộc tình cuối cùng mà Trịnh Công Sơn định cưới làm vợ.
Nhưng người tình ở bên Sơn trước lúc lâm chung lại là Hoàng Anh,
một cô gái trẻ, con nhà danh gia thế phiệt, hội đủ những giá trị của người phụ
nữ hiện đại, dành 13 năm thanh xuân để yêu Trịnh mà chẳng đòi hỏi điều gì.
Hoàng Anh cũng là người sau chót mà Trịnh Công Sơn cầm tay như để tri ân, tạ từ
với ánh mắt nói bao lời vời vợi mà những kẻ ngoài cuộc chứng kiến dù tinh tế
bao nhiêu cũng không thể chuyển ký tự ấy thành lời. Trịnh Công Sơn luôn trân trọng
những người phụ nữ yêu mình, ông thường ghép tên người mình yêu vào ca từ bài
hát. “Trời cao níu bước Sơn Khê”, “Khê” chính là cô gái tên Bích Khê ở thành phố
biển Nha Trang, học cùng khóa sư phạm với Sơn ở Qui Nhơn.
Mùa hè năm 1962, đêm nào, Trịnh Công Sơn cũng cùng Bích Khê ra
bãi biển Qui Nhơn, đoạn có nhà hàng Phương Mai bây giờ, để nghe sóng, thưởng
trăng. “Diễm xưa” chính là Bích Diễm, chị gái của Dao Ánh. “Cây cho Lộc và cây
sẽ cho hoa”, “Lộc” là cô láng giềng của Tôn Thất Văn, bạn Sơn, do thường đến
thăm Văn ở Thủ Đức mà Sơn cảm mến Lộc. “Lay nhẹ Bống bồng bông. Lay nhẹ đóa Hồng
Nhung”, “Bống” hay “Hồng Nhung” cùng là tên của ca sỹ Hồng Nhung…
Nhưng có một điều rất lạ là người đàn bà được dân Sài Gòn gọi là
“Nữ Hoàng Chân Đất”, người chắp cánh cho nhạc Trịnh bay xa, người đàn bà kỳ bí
nhất trong các “nghi án” tình sử của họ Trịnh là Khánh Ly lại không lộ diện
trong ca khúc nào. Bỏ Đà Lạt về Sài Gòn, chân đất trên sàn diễn, chịu mọi thiếu
thốn cực nhọc suốt 10 năm đầu hát nhạc Trịnh “không công”, hát nhạc Trịnh khắp
trần gian, hát nhạc Trịnh xuyên qua hai thế kỷ, cả đời hát nhạc Trịnh, người ca
sỹ gốc Hà Nội, tên thật là Nguyễn Thị Lệ Mai, có vẻ đẹp sơn cước mê hồn và giọng
hát trời cho ấy thật xứng đáng được Trịnh Công Sơn tặng riêng vài bản tình ca.
Hình như chưa thấy bao giờ Khánh Ly phân vân về điều đó. Có lẽ, chỉ cần vài lời
bình chọn của hầu hết người yêu nhạc Trịnh suốt nửa thế kỷ qua, : “Sau Khánh
Ly, không ai hát nhạc Trịnh hay hơn nữa” đã là vòng nguyệt quế tột đỉnh của
tình yêu và vinh quang, không một bóng hồng nào dưới gầm trời này cạnh tranh được.
Quả thực, Lệ Thu, Thái Thanh, Tuấn Ngọc, Quang Dũng, Hồng Nhung…, những ca sỹ
tài năng, toàn tâm hát nhạc Trịnh nhiều năm, nhưng so với Khánh Ly vẫn là khoảng
cách xa vời. Phải chăng, khoảng cách ấy đã được lập trình bởi tạo hóa nên mãi
mãi những ca sỹ trần gian khác không thể xích gần.
![]() |
Với cô Bống ngày nào |
Nhắc đến mối quan hệ Trịnh-Khánh, nhạc sỹ thường chia sẻ, đó là “thứ
tình bạn đặc biệt”, còn ca sỹ thì cho rằng “cao hơn, đẹp hơn, thánh thiện hơn
tình cảm đời thường”. Nhưng bản chất tò mò của loài người đâu dễ gì buông tha lối
nói ỡm ờ, nửa vời như thế, nên chàng “không nói được thì đành thôi vậy”, và
nàng cũng phụ họa theo “tất cả những điều cần nói chính là những điều không bao
giờ nói được bằng lời”. Với lời tỏ bày ấy, phải chăng Khánh Ly đã đại diện cho
thế giới giai nhân, cho những người đàn bà yêu Trịnh khép lại nửa thế kỷ hoài
nghi về những cuộc tình dâng hiến trong cuộc hội ngộ trai tài, gái sắc.
Không biết, sau khi rời cõi tạm trần gian chơi vơi nhạc-họa-tình-thơ,
về chốn niết bàn vô vi cực lạc, Trịnh Công Sơn có tỉnh ra để nhớ hết tên những
người đàn bà mình đã yêu hay vẫn lãng đãng mơ màng như khi còn sống : “Dòng
sông suối hở mặn mà. Tấm thân trinh bạch em là, là ai?” !
SÀI GÒN
TIẾT THANH MINH
Ngô Quốc Túy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét