Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

*Màn bạc và truyền hình


Hơn một thế kỷ xem phim, người ta nhận ra rằng: Còn bé thích hoạt hình, thau tháu thích kiếm hiệp, vị thành niên thích tình yêu, trung niên thích tài liệu, còn khi đã già, không ai chắc trước thích phim gì!

                                                                                                            
Theo Hegel, loài người có 6 hoạt động nghệ thuật gồm : Kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múa, và thi ca. Cuối thế kỷ 20, điện ảnh được bổ sung thành môn nghệ thuật thứ 7. Từ đây, cõi trần có 3 nơi để diễn : Diễn ở trường đời, diễn trên sân khấu, diễn trong phim. Cũng là phim, nhưng màn bạc (phim nhựa), khác phim màn ảnh nhỏ (phim truyền hình) về công nghệ sản xuất, phương tiện phát hành. Xem phim nhựa trong rạp, xem phim truyền hình trên ti vi tương tự như đọc báo giấy và báo mạng, cũng tùy theo đẳng cấp hoặc sở thích... 

Từ khi ra đời, phim luôn được con người ngưỡng vọng. Người ta thường cảm thán : “Diễn như phim!”, “Nhanh như phim!”, “Đẹp như phim”!, “Tuyệt như phim!”... Thời thuộc Pháp, dân Sài Gòn, Hà Nội có tấm vé đến rạp cinema là “oách” lắm!  Không chỉ thích xem phim, con người còn mơ được đóng phim, đạo diễn phim, viết kịch bản phim, quay phim, làm hậu kỳ phim. 


    Được lên phim, “sang” hơn lên ti vi. Ai cũng nghĩ, ti vi chỉ nặng về quảng cáo, tuyên truyền, màn bạc mới đích thực là nghệ thuật. Bởi vậy, hễ “dính” vào công việc làm phim là dễ bề nổi tiếng. Chỉ cần được phô cái bản mặt vài giây lên màn bạc giữa bao la những cái bản mặt sắm vai quần chúng, dù không được một cắc catse, vẫn sướng đã đời! 

    Nếu được chọn làm diễn viên chính trong phim thì coi như trúng độc đắc. Chỉ một lần vào vai diễn viên chính thành công là đã thành sao. Cũng là sao, nhưng sao màn bạc nghe sang hơn hẳn sao ca nhạc, sao bóng đá và các loại sao khác trên mặt đất !

Một thế kỷ lên ngôi

Buổi chiếu phim có thu tiền ngày 28 tháng 12 năm 1895, của Anguste và Louis tại quán Grand Cafe – Paris (nước Pháp), với giá vé 1 Franc để được xem 10 đoạn phim, mỗi đoạn dài 1 phút, đánh dấu thời hoàng kim của màn bạc, trò chơi mới của loài người, bắt đầu! 

    Tiếp theo đó, nghệ thuật điện ảnh từng bước được hoàn thiện. Năm 1910, đạo diễn D.W Griffith, người Mỹ, chuẩn hóa thuật ngữ điện ảnh, công đoạn chế tác kịch bản, phân vai, quay phim, hậu kỳ... Năm 1927, phim được lồng tiếng (trước đó là phim câm). Năm 1950, xuất hiện công nghệ làm phim màu. Cuối thế kỷ 20, máy quay phim sử dụng công nghệ kỹ thuật số, nhờ vậy, đạo diễn biết ngay kết quả để chỉnh sửa cảnh quay, không phải chờ dương bản sau 24 giờ qua công đoạn tráng phim buồng tối...Từ đây, phim như thể “thức ăn nhanh”, các nhà sản xuất phim luôn chế biến thêm nhiều món mới, lạ miệng, còn khán giả thì phùng mỏ, trợn mắt, vừa nhai, vừa nuốt, ngấu nghiến !

  Giá thành của phim nhựa đắt hơn phim truyền hình gấp nhiều lần. Phim truyền hình lưu trữ hình ảnh bằng băng video, đĩa. Phim nhựa lưu trữ hình ảnh bằng các loại vật liệu polyme, gelatin, bromua bạc..., nên có độ nhạy sáng, mịn hạt, hiệu quả tạo hình thẩm mỹ cao. Kích thước phim nhựa dao động từ 8 đến 70 mm, với tỷ lệ khuôn hình thay đổi theo thời gian : 1.33 năm 1910, 1.37 năm 1932, 2.35 năm 1950, 2.39 năm 1970... Chỉ có Anh và Mỹ là hai nước có tỷ lệ khuôn hình phim ổn định : 1.85. Phim được phân loại theo độ dài. Từ 60 phút (tương đương 1600 mét phim)  trở xuống gọi là phim ngắn. 60 phút trở lên gọi là phim dài. Một tập phim truyện nhựa thông thường là 90 phút. Phim có tập dài nhất trong lịch sử điện ảnh là phim “Cuốn theo chiều gió” dài 222 phút. Nếu phân loại theo nội dung, có các loại phim : phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình, phim quảng cáo, phim kiếm hiệp, phim khiêu dâm... Nói chung, loài người nghĩ gì, làm gì, mơ gì, xấu gì, tốt gì, sướng gì..., tất tần tật, đều được lên phim cả. Xem phim mà như xem mình, ai chả thích !

    Mỹ là nước có rạp dành riêng để chiếu phim nhựa sớm nhất, từ năm 1905. Mỹ cũng là nước có giải thưởng điện ảnh danh giá nhất hành tinh, giải Oscar (thuộc Viện hàn lâm nghệ thuật Hoa Kỳ). Phim Mỹ thống trị điện ảnh thế giới suốt nửa thế kỷ qua. Có phim Mỹ doanh thu cả tỷ USD. Riêng kinh đô điện ảnh Hollywood của nước Mỹ đã có tới 6 tập đoàn phim lớn nhất thế giới như các hãng Fox Enter ment Group, NBC Universa, Time Warner..., sản xuất hàng trăm bộ phim loại “bom tấn” như “Điệp viên 007”, “Chúa tể của những chiếc nhẫn”, “Chiến tranh giữa các vì sao”, “Titanic”...Xem phim Mỹ, mọi người mới ngã ngửa ra, không ngờ cái gì “chú Sam” cũng nhất !

Điệp viên 007- Bom tấn Hollywood 

Dân Việt Nam ta thuộc loại mê phim nhất thế giới. Thập kỷ 1960, 1970, ở miền Bắc, chỉ những thành phố lớn như Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định..., mới có rạp chiếu phim, và phải xếp hàng mướt mồ hôi mới mua được một cặp vé. Những phim hay, chiếu suất 19 hoặc 20 giờ, phải mua vé “chợ đen”, đắt gấp nhiều lần. Ở Hà Nội thời ấy, “phe” vé xem phim là một nghề sống được. Không những sống được, mà còn được nhiều người “ngả nón” xếp vào loại “phe” có văn hóa, “phe” cao cấp !

  Quầy Grand café ở khách sạn Métropole là nơi
  chiếu phim đầu tiên ở Hà Nội - Ảnh: Tư liệu
                 

    Có đến 90% khán giả miền Bắc ( nông thôn, miền núi, hải đảo) cả năm mới vài lần được xem phim. Mỗi tỉnh có vài đội chiếu bóng lưu động, chở máy nổ, máy chiếu phim, phông màn bằng xe đạp thồ, về các xã chiếu phim theo lịch của Ty văn hóa. Người ta thường sử dụng sân bóng đá, sân trường hay sân kho hợp tác xã nông nghiệp làm bãi chiếu phim và thường chỉ chiếu một buổi tối rồi lại rút đi địa bàn khác. Khi có đội chiếu bóng lưu động về, dân làng vui như tết. Mọi người từ già đến trẻ, thu xếp việc đồng áng, việc nhà, ăn cơm sớm rồi kéo nhau đi giữ chỗ. Khi cái loa kim có cái miệng to bằng miệng chiếc nón bài thơ, rọt rẹt vang lên cùng với tiếng máy chiếu phim quay xè xè, rọi thử ống kính lên phông vải trắng, cánh trai làng gái bản cấu chí nhau, mừng rú lên như vớ được vàng. Có những bộ phim chiếu đi chiếu lại nhiều lần, phim bị mờ, xước, hình trên màn ảnh nhấp nháy, rỗ hoa, âm thanh lẹc khẹc, lạo xạo..., làm cho khán giả ù tai, nổ đom đóm mắt, mà vẫn thích ! Hôm nào đổ mưa, phải dừng buổi chiếu thì ai nấy tiu nghỉu, buồn như chấu cắn. Các phim ăn khách thời đó, ở miền Bắc có : “Cánh buồm đỏ thắm”, “Sông Đông êm đềm”, “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”, “Công chúa ngủ trong rừng”...(phim ngoại), “Chị Tư Hậu”, “Chim vành khuyên”, “Em bé Hà Nội”, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”...(phim nội). 

Thời chiếu bóng lưu động- Phàm cứ đói văn hóa,
vớ được nghệ thuật gì cũng nuốt

    Phàm cứ đói văn hóa, vớ được nghệ thuật gì cũng nuốt. Thời ấy, có phim vừa dở vừa xấu, khói bom như khói bếp, tiếng súng như tiếng trống cầm canh, đánh nhau như đánh trận giả, trận nào cũng ta thắng địch thua, mà lúc hết phim, phải về, ai nấy vẫn thấy tiêng tiếc !

    Sau ngày thống nhất đất nước, phim nhựa Việt Nam chủ yếu vẫn đi sâu vào khai thác đề tài chiến tranh và cách mạng, nên chỉ có ý nghĩa cổ vũ đám đông nhất thời, không có dấu ấn nghệ thuật bền vững. Từ 1970 đến nay, ngành điện ảnh cách mạng Việt Nam đã 18 lần tổ chức Liên hoan phim, hầu như năm nào cũng có giải “Bông Sen Vàng”, “Bông Sen Bạc”. Nhưng những bông sen ấy chủ yếu dành để ban giám khảo tán dương, bình chọn, trao giải, để làm thành tích cho cán bộ, nhân viên ngành điện ảnh dễ đề bạt, lên lương, và để đảm bảo an toàn cho cái ghế của các sếp văn hóa..., còn mang chiếu rạp, vắng như chùa bà đanh ! 

    Sau này, xuất hiện thêm một vài hãng phim tư nhân như Phước Sang, Phương Nam..., nhưng phim quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Phim quốc doanh “bom tấn” về sử dụng tiền ngân sách của Việt Nam là phim “Thái sư Trần Thủ Độ”, 56 tỷ. Phim này nằm trong kế hoạch trình chiếu dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhưng cuối năm 2013 mới được ra mắt trên VTV1, và nghe nói cũng chẳng có mấy người xem !

“Hậu sinh khả úy”

Phim truyền hình xuất hiện sau khi những chiếc ti vi thương mại đầu tiên được chưng tại các Showroom ở Mỹ, năm 1950. Phim truyền hình được thu hình vào băng từ hoặc đĩa kỹ thuật số. Công nghệ, kỹ thuật chế tác phim truyền hình đơn giản nên chi phí thấp. Phim truyền hình thu hồi vốn và lãi qua quảng cáo. Phim truyền hình ra đời, phát triển và cạnh tranh gay gắt với phim nhựa. Ở một số nước, trong đó có Việt Nam, các rạp chiếu phim thưa khách dần, không khác gì cảnh ế ẩm của các sạp báo giấy bị báo mạng lấn sân. Người ta xem phim truyền hình như thể dân Sài Gòn mươi năm nay ăn món bánh tráng trộn, chẳng bổ béo gì nhưng khoái khẩu bởi vị mằn mặn, cay cay, ngòn ngọt !

  Việt Nam hiện có 2 hãng sản xuất phim truyền hình lớn nhất nước là TFS của HTV và VFC của VTV, mỗi năm sản xuất trên 600 đầu phim, chiếm 20% thời lượng phát sóng phim truyền hình (thời lượng còn lại dành phát phim truyền hình nước ngoài). Nếu doanh nghiệp muốn quảng cáo xen ngang các phim truyền hình chiếu vào giờ vàng thì cứ 1 show quảng cáo ngắn, phải nộp cho nhà đài hơn 30 triệu. Trung bình, cứ một tập phim truyền hình trên VTV, HTV, BTV..., vào giờ vàng có hàng mấy chục cái show quảng cáo như thế, ngon ăn hơn hẳn phim nhựa ! 

  Một bộ phim truyền hình có từ vài chục đến vài trăm tập. Thời lượng 1 tập thường dưới 60 phút. Những phim truyền hình nổi tiếng thế giới, cách nay vài chục năm như “Nô tì Isaura” , “Người giàu cũng khóc”, “Ngôi nhà trên thảo nguyên”, “Trở về Eden”, “Đơn giản tôi là Maria”, “Osin”..., lôi cuốn khán giả Việt Nam từ ngày này qua ngày khác. Khi ấy, dân miền Bắc rất ít nhà sắm được ti vi, điện đóm lại chập chờn, phải dự phòng ác qui, nên xem ké, xem nhờ ti vi hàng xóm là “chuyện nhỏ”. Ở thôn quê có khi phải đạp xe hàng chục cây số đến nhà bà con, bạn bè ở phố huyện để xem nhờ. Nhiều khán giả khóc như mưa như gió khi xem “Nô tì Isaura”, “Người giàu cũng khóc”..., nhưng lại chót vót tâm hồn với “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”, “Trở về Eden”... 

    “Ngôi nhà trên thảo nguyên” dài 200 tập, chia làm 9 phần, lấy bối cảnh có thật ở một vùng quê nước Mỹ cuối thế kỷ 19. Mỗi tập phim là một câu chuyện đời thường, là một góc nhìn nhân văn về cuộc sống, lên án tệ phân biệt chủng tộc, chiến tranh, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình qua nhãn quan thông minh, trái tim mẫn cảm tinh tế của nhân vật nữ Laura (do diễn viên Melissa Gilbert đóng). Hơn thế nữa, “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” còn là bức tranh thiên nhiên có những cảnh đồng quê lãng mạn, đẹp đến nao lòng.

Nếu như cuối thế kỷ 20, khán giả màn ảnh nhỏ Việt Nam mê phim truyền hình Âu – Mỹ, thì đầu thế kỷ 21 lại đổi tông sang mê phim truyền hình Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Trung Quốc. “Mối tình đầu”, “Anh em nhà bác sỹ”, “Bản tình ca mùa đông”, “Hoàn Châu cách cách”..., là những phim làm khán giả ten Việt hút hồn. Tiếp sau loạt phim tâm lý, phim cổ trang Hàn Quốc với những khuôn hình đẹp, mới lạ, cách dẫn chuyện nhẹ nhàng, lớp lang gọn gẽ, cũng một phen khuấy đảo thị trường phim truyền hình trên lãnh thổ Việt. Hàng vạn fan hâm mộ phim Hàn, nổi cơn đồng bóng, tô môi thâm, nhuộm tóc đỏ, sơn móng tay đen..., làm cho đường phố, vỉa hè Hà Nội, Sài Gòn có lúc, có nơi nhang nhác Seoul, Busan, Daegu..., của xứ sở kim chi vậy !

Bản tình ca mùa đông hút hồn ten Việt

Nhưng có lẽ “Tây du ký” mới là phim truyền hình châu Á nặng ký nhất. Đó là phim “Tây du ký” của đạo diễn Dương Khiết và diễn viên chính Tiểu Linh Đồng (vai Tôn Ngộ Không), do Trung Quốc sản xuất năm 1986, chứ không phải “Tây du ký” của Nhật Bản, Singapore, Hồng Kong...Phim này đã phát sóng 2000 lần ở Trung Quốc và hàng trăm lần ở các nước, vẫn ăn khách. Ở Việt Nam, đã mấy chục năm mà già, trẻ trai gái từ “hai lúa” đến “học giả” vẫn ngóng đến hè chờ VTV phát sóng lại. 

    Trên thế giới có rất ít phim thành công khi chuyển thể kịch bản từ tác phẩm văn học. “Tây du ký”, “Trở về Eden”, “Cuốn theo chiều gió”, nằm trong số rất ít phim ấy. Thành công của phim “Tây du ký”, trước hết thuộc về tác giả nguyên tác Ngô Thừa Ân, một thiên tài của thể loại tiểu thuyết chương hồi. Ông đã làm cho con người thấy được thế giới ảo và thực, rút cục chỉ là một. Ở đó cũng có thiên thần và ác quỉ, có bản năng và nhân phẩm, có hài hước và bi tráng..., trong mỗi con người, trong cuộc sống trần gian. “Tây du ký” có tầng nấc, cung bậc, nông, sâu, cao thấp cho tất cả mọi người thưởng ngoạn. Đạo diễn Dương Khiết cùng với chồng là Vương Sùng Thu, và dàn diễn viên siêu hạng đã làm cho Ngô Thừa Ân, nếu sống lại, hẳn cũng cười mỉm, đồng tình ! 

Tây du ký- nguyên tác Ngô Thừa Ân với dàn diễn viên siêu hạng

Mấy thập kỷ qua, TFS và VFC đã sản xuất hàng chục nghìn phim truyền hình,  nhưng chỉ có mươi phim có giá trị đáng kể. Số còn lại, xem xong, quên tức thì, nếu có nhớ thì là nhớ các scandal, chẳng hạn như màn liếm ngực phản cảm của đôi nam nữ trong phim “Hoa nắng”... Phim “Đất phương nam” của TFS, được nhà phát hành phim người Mỹ, Gerry Herman mua bản quyền năm 2004, có lẽ là phim truyền hình Việt Nam khá nhất, tính đến tháng 11 năm 2013. Phải chăng, ở Việt Nam hiện nay, phim truyền hình chẳng khác gì nhạc trẻ, như người đàn bà vừa già, vừa yếu nhưng lại ham đẻ nhiều, đẻ dày, đẻ non, nên những đứa con vừa mới chào đời đã không tránh khỏi còi xương, rồi chết yểu !

Dĩ vãng vàng son

Ở Việt Nam, các loại hình nghệ thuật thường có những quá khứ vàng son, trong đó có điện ảnh. Những người Việt đầu tiên được “mục sở thị” màn bạc vào ngày 18 tháng 4 năm 1899 (do Gabiriel Veyre tổ chức chiếu tại Hà Nội). Nhưng phải đến ngày10 tháng 8 năm 1920, khi có rạp Pathe, người Hà Nội mới được ngồi rạp xem chiếu bóng. 

    Hà Nội được xem phim trước, nhưng Sài Gòn lại phát triển điện ảnh nhanh hơn. Năm 1927, Hà Nội có 4 rạp chiếu phim thì Sài Gòn có gấp đôi. Ngày 11 tháng 9 năm 1923, Pháp thành lập hãng phim Đông Dương thì năm 1924, bộ phim đầu tiên do người Việt đạo diễn ra đời, phim “Đồng tiền kẽm tậu được ngựa”, phỏng theo truyện ngụ ngôn “Cô gái và bình sữa” của La Fontaine, do Nguyễn Lan Hương đạo diễn. Từ cuối thập niên 1930, cả nước có 65 rạp chiếu và hàng chục hãng phim ra đời. Cứ thế, điện ảnh Việt phát triển theo cấp số cộng, đến năm 1954 thì nước Việt chia ra 2 miền điện ảnh.

Ở miền Bắc, điện ảnh phát triển chậm. Đề tài đơn điệu, nghèo nàn, chủ yếu tập trung xây dựng hình tượng con người mới xã hội chủ nghĩa trong chiến đấu và lao động. Công nghệ sản xuất phim lạc hậu. Năm 1970, cả miền Bắc có 48 rạp, 277 đội chiếu bóng lưu động. Suốt 10 năm từ 1965 đến 1975, phát hành được 49 bộ phim truyện nội địa. Chỉ có Phạm Kỳ Nam là đạo diễn được đào tạo bài bản tại Pháp. Có một số phim được các nhà lý luận điện ảnh cách mạng đánh giá cao như “Vợ chồng A Phủ” (1961) “Chim vành khuyên” (1962), “Chị Tư Hậu” (1963), “Nổi gió” (1966), “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” (1972). Khoảng mươi diễn viên được xem là diễn xuất có nghề như Tuệ Minh, Thu An, Trà Giang, Lâm Tới, Thế Anh, Như Quỳnh, Lan Hương...



Ngược lại với miền Bắc, miền Nam có nền điện ảnh phát triển rực rỡ nhất khối ASEAN và thuộc tốp đầu ở châu Á. Từ năm 1955, hàng loạt hãng phim ra đời ở Sài Gòn như : Liên Hiệp, Alpha, Tân Việt, Việt Thanh, Văn Thế, Viễn Đông, Đông Phương... Riêng năm 1957, sản xuất 37 đầu phim truyện. Năm 1969, Sài Gòn là một trong số ít thành phố của châu Á sản xuất phim nhựa màu. Riêng năm 1970, có 30 hãng phim đạt doanh số và lợi nhuận kỷ lục. Nhiều phim đoạt giải trong các liên hoan phim ở khu vực, châu Á và thế giới. Phim “Chiều kỷ niệm” (sản xuất năm 1969, diễn viên chính Thẩm Thúy Hằng, đạo diễn Lê Mộng Hoàng) chiếu ở rạp Rex, liên tục cháy vé, đạt doanh thu 10 triệu đồng lúc bấy giờ (tương đương 5 triệu USD). Phim “Chân trời tím” (sản xuất năm 1970, đạo diễn Lê Hoàng Hoa, nhạc phim là ca khúc nổi tiềng “Nửa hồn thương đau” của Phạm Đình Chương) có qui mô lớn nhất với vốn đầu tư 14 triệu đồng, thu về 94 triệu đồng. Để hoàn thành phim này, có những cảnh, hãng phim phải thuê 100 xe tăng, 45 trực thăng, 300 xe cơ giới, 600 diễn viên...Phim kinh dị đầu tiên “Con ma nhà họ Hứa” (sản xuất năm 1973), cũng đạt siêu lợi nhuận. Ngoài ra, còn hàng chục bộ phim đáng kể khác của Sài Gòn trong hai thập niên 1950, 1960 như : “Kiếp Hoa” (1953), “Người đẹp Bình Dương” (1957), “Hồi chuông Thiên Mụ” (1958), “Mưa lạnh hoàng hôn” (1961), “Hai chuyến xe hoa”, “Mưa rừng” (1963), “Loan mắt nhung” (1970), “Người tình không chân dung” (1971)...Những phim này đã làm nên tên tuổi các ngôi sao màn bạc tầm cỡ châu lục như Kim Cương, Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng, Thanh Nga và những đạo diễn tài hoa như Lê Hoàng Hoa, Lê Dân, Hoàng Vĩnh Lộc, Thái Thúc Nha, Lưu Bạch Đàn, Lê Mộng Hoàng...

Minh tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng

    Hơn một thế kỷ xem phim, người ta nhận ra rằng: Còn bé thích hoạt hình, thau tháu thích kiếm hiệp, vị thành niên thích tình yêu, trung niên thích tài liệu, còn khi đã già, không ai chắc trước thích phim gì!

     SÀI GÒN 2013 
    Ngô Quốc Túy

Không có nhận xét nào: