Đầu thế kỷ trước đã thấy Hà Nội phảng phất đâu đó trên đường phố Sài Gòn. Người ta ngửi, người ta nếm được hương vị ba sáu phố phường từ mùi phở Bát Đàn ở chợ Bến Thành, mùi chả cá Lã Vọng ở đường Lý Văn Phức, mùi thịt chó mắm tôm Hàng Da ở Ngã Ba Ông Tạ, mùi lạc rang húng lìu Bà Triệu ở chợ Bà Chiểu ...
Cũng như mùi trai gái, khi chưa quen hơi bén tiếng thì eo ơi khó chịu, thậm chí lợm giọng lắm. Nhưng phải lòng nhau rồi thì lâu lâu không được hít hà là thấy them thèm, nhơ nhớ. Thậm chí mùi chua chua, mằn mặn của mồ hôi trên da thịt cũng hóa thân thành hương vị tình yêu!...
Đôi lúc người ta còn thấy trên đường phố Sài Gòn thấp thoáng tà áo dài khâu tay bằng lụa Hà Đông, kiểu áo dài Hàng Đào, kín đáo mà vẫn khơi gợi được vẻ nuột nà của cơ thể, kiêu sa mà vẫn như thèm khát một vòng tay. Mỗi khuya, từ Ngõ Hoa cuối đường Hàm Nghi – Sài Gòn, người ta còn nghe vẳng tiếng trống chầu văn lãng đãng nỉ non, dập dìu…, như thể đang mộng du ở phố Khâm Thiên, phố cầm ca của Hà Thành vậy.
Năm 1915, một kẻ sĩ ở Hà Nội còn nổi hứng, xuất chiêu văn chương tại từ đường Lê Văn Duyệt, vị phúc thánh của dân Sài Gòn – Gia Định, bằng vế đối, màn chào hỏi chữ nghĩa, chờ giới nghiên bút Đồng Nai đáp lại: “ Cố quốc giang san nguy nhiên tồn cổ miếu ” . Nghĩa là: Giang sơn nước cũ lớn lao hãy còn ngôi miếu cổ này .
Nhưng dấu ấn Hà Nội ở Sài Gòn thời đó chỉ như hương sắc địa lan đơn độc, kén chọn người chơi, thứ hương sắc nhập cư có hạn ngạch dành cho thiểu số kẻ sỹ Bắc Hà. Nó bơ vơ manh mún giữa muôn vàn sắc màu Á – Âu xuất siêu từ Trung Quốc, Ấn Độ , Anh , Pháp …vào thị trường văn hóa Sài Gòn đang còn bỏ ngỏ lúc bấy giờ .
Sau năm 1954, trong làn sóng di cư vào Sài Gòn, người Hà Nội chiếm tỉ lệ cao hơn cả dân Bù Chu, Phát Diệm. Phong độ Hà Thành xuất hiện nhiều hơn ở nghị trường, thương trường và cả những chốn ăn chơi sang trọng.
Hình như con người nói chung dễ thích nghi về chuyện mặc hơn chuyện ăn. Chẳng hạn, dân ta mặc đầm hay quần bò cả ngày không sao nhưng bữa nào cũng húp súp, gặm bánh mì thì khó chịu lắm. Bởi vậy nên mới có chuyện ăn vụng mắm tôm của lưu học sinh Việt Nam ở ký túc xá Mạc Tư Khoa thời nước Nga Xô Viết. Cái bao tử người Việt quen nghiền cơm và rau muống, đó gọi là thói quen dân tộc, còn cái bao tử Bắc, Trung, Nam lại có thói quen riêng gọi là thói quen vùng miền. Ví như, dân Bắc Kỳ khoái phở, dân Trung Kỳ thích mì Quảng, dân Nam Kỳ lại ưa hủ tiếu...Thói quen ấy khó bỏ lắm. Đã “ dính ” vào còn khó bỏ hơn cả thuốc lá, thuốc phiện, nghiện đến mấy đời. Người Hà Nội ở Sài Gòn cũng vậy, hàng chục năm, có người vẫn không quen hủ tiếu, bánh xèo, mắm nêm …Cứ nhất thiết phải phở, bún ốc, mắm tôm …mới thích. Thậm chí có món ăn chỉ khác nhau về hình thức như bánh tét, bánh chưng mà vẫn không thể thay thế, hoán vị cho nhau được.
Người Hà Nội vào Sài Gòn, ban đầu chập chững, sau đứng được ngay bởi cùng là dân phố lớn. Ở ta, đã đành quê với phố một trời một vực, nhưng ngay cả phố lớn với phố nhỏ, tâm lý thị thành cũng vênh nhau lắm. Phố nhỏ thường được gán hai từ đẳng cấp thấp hơn: Tỉnh lẻ! Người Việt Nam mình thường có tâm lý trọng phố hơn quê. Dù dân nhà quê nai lưng ra cung phụng của ngon vật lạ như gà chạy bộ, nếp cái hoa vàng, cam Bố Hạ …thì vẫn bị coi là quê một cục. Còn người thành phố bất kể béo gầy, đẹp, xấu, dốt nát, đểu cáng, trộm cắp..., đều có giá cao hơn. Cũng như phở mà phở bò Kô Bê, một bát ngót triệu, còn phở bò Mộc Châu một bát chỉ vài chục nghìn. Vì sao thế ? Vì nghe nói, bò Kô Bê hàng ngày uống bia Henniken và nghe nhạc Bethoven còn bò Mộc Châu chỉ nhai cỏ. Lý sự ấy có vẻ chỉ lọt lỗ nhĩ những người thích đùa !
![]() |
Phở Phố Nhỏ của Hà Nội ở đường Nguyễn Đình Chiểu |
Sau 1975, Hà Nội bay vào Nam dễ đến vài trăm ngàn người. Cuộc di cư ấy không như loài chim, chỉ vì tìm nơi tránh rét hay kiếm ăn. Có một số người di cư bất đắc dĩ do sự điều động công chức, do nhu cầu đoàn tụ, do mưu cầu danh lợi, do thất sủng vì đấu đá, muốn yên thân, do muốn hít hà mùi vị hàng hóa tư bản, mùi văn hóa “Mẽo”..., còn lẩn khuất, vấn vương đâu đó ở miền đất phương Nam. Có hai dòng Hà Nội chảy vào Nam. Một dòng theo Âu Cơ lên Tây Nguyên. Nhiều nhất là Lâm Đồng, nhiều đến nỗi phải dành cả một huyện cho người Hà Nội, huyện Lâm Hà. Một dòng theo Lạc Long Quân xuống miền duyên hải. Nhiều nhất là Sài Gòn. Bây giờ, từ quận đến huyện ở Sài Gòn, chỗ nào cũng hiện diện Hà Thành. Cách trở sông nước như Cần Giờ mà Hà Nội cũng hồn nhiên khắp nẻo rừng đước!
Rất dễ nhận ra người gốc Hà Nội ngay ở miếng ăn, lời nói. Người Hà Nội ăn như ong lấy mật, thư thái, nhỏ nhẹ mà ngập tràn cảm xúc ẩm thực. Người Hà Nội nói như lướt phím, âm sắc đủ để người nghe gợn sóng. Cũng không khó để phân biệt Hà Nội gốc và Hà Nội lai. Vì nhái giọng Hà Nội đã khó, nhái phong cách Hà Nội càng không thể. Nhưng Sài Gòn vốn là hợp chủng phố, dân Sài Gòn vốn không chi ly, xét nét, nên dù Hà Nội gốc hay Hà Nội lai thì cũng một hàng ngang mà sống. Dù có bị o ép, cưỡng bức bằng thể chế độc trị nào đi chăng nữa, Sài Gòn vẫn luôn hướng đến hội nhập vào thế giới phẳng.
Hào khí Đông Đô- Thăng Long- Hà Nội thấm đẫm hồn phách Sài Gòn như một tất yếu lịch sử giao phó cho ông cha ta “từ thuở mang gươm đi mở nước”. Trịnh- Nguyễn phân tranh là những trang buồn của triều đại phong kiến Việt Nam nhưng chính nó là màn dạo đầu của bản hùng ca mở cõi mà ý chí non sông gửi gắm chúa Tiên nhà Nguyễn. Rồi đây, khi lịch sử dân tộc thẩm định lại công, tội, nhất định Nguyễn Hoàng và triều Nguyễn với chiến công mở nước sẽ được đề cử vào danh sách những anh hùng dân tộc hàng đầu, sánh ngang cùng chiến công giữ nước của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...
Đến đầu thế kỷ 19, khi đã định hình được một nước Nam muôn thuở, vị phúc tướng Lê Văn Duyệt đã khôn khéo đưa văn hóa tâm linh Kinh Bắc gieo vào lòng người Sài Gòn- Gia Định rồi lan tỏa ra cả bầu trời mặt đất nắng gió phương Nam. Phiên bản văn hóa Kinh Bắc đậm chất phương Nam ấy thực sự là đối trọng nổi trội, dần dần chiếm địa vị thống trị giữa hàng chục nền văn hóa Đông Tây đang hăm hở tô vẽ cho mỗi sắc tộc đang sinh sống ở Sài Gòn .
Hà Nội cổ tích hơn Sài Gòn bảy trăm năm. Nhưng Sài Gòn lại hiện đại trước Hà Nội hai thập kỷ. Tháng 3- 1862, Banad đã phê duyệt qui hoạch thành phố Sài Gòn- Gia Định năm mươi ngàn dân, thì hai mươi năm sau, tháng 9- 1882, Henri Riviêre mới chủ trương xây dựng thành phố Hà Nội ba mươi lăm ngàn dân. Trước 1975, Hà Nội nhỏ hơn Sài Gòn. Sau 2010, Hà Nội to hơn Sài Gòn, gấp rưỡi. Với diện tích 3.344km2 của Thủ Đô và diện tích 2.095km2 của Thành Đô, Hà Nội đương nhiên trở thành anh hai của em út Sài Gòn về mặt thể xác. Nhưng có lẽ giá trị đích thực của Hà Nội không phải vì diện tích lớn, dân số đông, công nghiệp phát triển mà là giá trị văn hóa. Nếu tư duy được như thế thì Hà Nội không chỉ là niềm kiêu hãnh của người Hà Nội mà còn là niềm kiêu hãnh của dân Sài Gòn, của cả nước. Phải chăng nỗi nhớ của những người Hà Nội ở Sài Gòn là nỗi nhớ về những phố cổ chật hẹp, mực thước mà hào hoa, nhớ về cơn gió đa tình, phóng đãng lướt trên môi sóng Hồ Tây, nhớ về tiếng chuông tàu điện leng keng mỗi sớm, lay khẽ Hồ Gươm tỉnh giấc, nhớ bãi sông Phúc Xá lãng đãng sương mai... Nếu Hà Nội to quá, cao quá, bụ bẫm quá…, buộc phải dát mỏng nỗi nhớ hòng bao bọc cho kín một trái tim quá cỡ, vô hồn!
Nói đến Hà Nội, biểu tượng tâm linh quyến rũ nhất phải là chùa Một Cột. Chùa Một Cột được dựng từ thời Lý Thái Tông 1040, nhân giấc mơ vua được phật quan âm tặng cho một hoàng tử để nối dõi. Nhưng chùa Một Cột thời Lý đã bị phá hủy hoàn toàn vào ngày 11-9-1954, do chiến tranh. Ngôi chùa hiện hữu tuổi hơn nửa thế kỷ nhưng vẫn trên nền đất cũ rêu phong ngàn năm văn hiến.
Trước 1975, không ai buộc được Sài Gòn phải hướng về Hà Nội. Đó là thực tế lịch sử. Nhưng khác với chính trị, văn hóa luôn có mạch nguồn riêng của nó, văn hóa của một dân tộc phủ sóng khắp bờ cõi. Bất kể thời nào, ở đâu, người Việt Nam ta đều có kênh riêng để dò tín hiệu từ trái tim Tổ Quốc, từ Đông Đô- Thăng Long- Hà Nội. Đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, phật tử Sài Gòn tự quyên tiền xây chùa Một Cột ở Thủ Đức, y hệt chùa Một Cột ở Hà Nội trong một khuôn viên rộng và hậu cung bề thế hơn. Quanh năm kẻ vãn cảnh, người cúng chùa Một Cột ở Thủ Đức mỗi ngày mỗi đông. Không thể định lượng sự linh thiêng của thế giới thần thánh, nhưng chắc một điều rằng nỗi nhớ Hà Nội luôn thơm thảo, thật thà và được ưu tiên lựa chọn trong trái tim của người Sài Gòn.
Tên tuổi ba mươi sáu phố phường Hà Nội đều gốc gác từ văn hóa địa danh bình dị, ẩn chứa sắc màu vui buồn của con người trong cuộc mưu sinh cơm áo và trong cả những giấc mơ đánh đổi tiền bạc, công danh để cứu cánh tâm linh miền đất địa linh nhân kiệt. Ví như phố hàng Nón (Rue des Chapeau), những chiếc nón Ba Tầm, Mũ Chảo, Cỗ Thao… không chỉ là nón, còn là nỗi niềm thời thế, là mỹ cảm kinh kỳ. Hay phố Chân Cầm (Rue lagis quet), chuyên làm đàn tranh, đàn đáy, đàn nguyệt…. Những chiếc đàn lưu giữ sự trinh trắng đài các và cả thói lẳng lơ, ham muốn sắc dục muôn thuở của con người trong các làn điệu ca trù, chầu văn, quan họ… Sài Gòn cũng có những phố nghề tương tự: phố Kéo đường Triệu Quang Phục, phố thuốc Bắc đường Hải Thượng Lãn Ông, phố chim đường Lê Hồng Phong, phố đàn đường Nguyễn Thiện Thuật... Những phố nghề ở Sài Gòn tuy không dòng dõi cổ trang bằng những phố nghề ở Hà Nội ngày xưa nhưng cũng rung rinh phần nào đáy lòng quá vãng của người Hà Nội ở Sài Gòn. Bởi giá trị sống của mỗi đời người không quan trọng là sống ở quê hay ở phố mà là sự sẻ chia được bao nhiêu với hồn phố, hồn quê !
Sang thế kỷ 21, Hà Nội càng lung linh hơn trong dài rộng hơn hai ngàn cây số vuông của Sài Gòn hoa lệ, trẻ trung. Không cần phải hơn hai giờ bay hay hơn ba mươi giờ hỏa xa, Hà Nội và Sài Gòn tuy “rất dài và rất xa” nhưng vẫn “ngày và đêm bên nhau”. Ta có thể tình tự cùng phố đêm Hà Nội ngạt ngào hoa sữa trên đường Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Văn Linh, ăn kem Tràng Tiền trên đường Nguyễn Thái Bình, thưởng thức đích thị phở Bát Đàn trong các tiệm “phở 24” giờ, “phở 5 sao”, “phở Ta”…, ngay giữa Sài Gòn.
Khi mới khai trương, nhiều người đến tiệm “phở Ta”ở trung tâm Sài Gòn, không chỉ để được ăn phở Hà Nội mà còn muốn được nhìn tận mắt bà chủ quán “phở Ta”, người gốc Hà Nội, cũng là phu nhân Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ.
Vào những đêm se lạnh giữa mùa giáng sinh Sài Gòn, nếu muốn ngất ngây la đà với hương phố cổ Hà Thành thì hãy đến thưởng thức món bún thang của quán “Chiều Hà Nội” chợ ông Tạ. Món bún thang quí tộc này là món bảo bối gia truyền của hiệu cơm tấm Bích Ngọc phố Hàng Bông nổi tiếng đất kinh kỳ. Ăn xổi một bát bún thang nóng hổi có thịt gà, tôm he, trứng tráng, nấm hương, cà cuống, rau răm,… thái chỉ, dù cái bao tử của màu da nào cũng sướng phát sốt mà ngấu nghiến cái ngon, cái ngọt, đến sợi bún, giọt nước dùng cuối cùng trong bát!
Sài Gòn không chỉ là nơi phát tài, phát lộc nó còn là nơi cho cái đẹp tị nạn để thăng hoa. Phạm Duy, Lưu Quang Vũ, Hồng Nhung…, những tài năng Hà Nội được Sài Gòn cưu mang mà phát tiết. Bất chấp sự đỏng đảnh của thời thế, sự chông chênh của danh vọng, sự mơ hồ của cái đẹp… lúc bấy giờ, Hà Nội và Sài Gòn vẫn vượt rào cuộc tình ngoài giá thú để dâng hiến và trao tặng, làm cho dân tộc này không chỉ nổi tiếng về đánh giặc và mở cõi, không chỉ giỏi chịu đựng lam lũ, đói nghèo, bất công, phi lý..., mà còn là một dân tộc luôn khát khao cái đẹp, yêu quí cái đẹp.
Và “mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” đang ánh lên rực rỡ giữa “Hòn Ngọc Viễn Đông” Sài Gòn, trong mùa giáng sinh, nơi cực nam Tổ Quốc!
SÀI GÒN SẮP XUÂN
Ngô Quốc Túy
(Cảm ơn TG đã gửi bài tới Quê Nhà)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét