.jpg)
Sài Gòn bây giờ có bao nhiêu người nhà quê ? Một câu hỏi thuộc lĩnh vực xã hội học cực kỳ phiền toái. Phiền toái bởi vì muốn đáp số trước hết phải trả lời câu hỏi : Thế nào là người nhà quê ? Rồi đụng đến biết bao điều nhạy cảm khác.
.jpg)
Vậy tạm hiểu người nhà quê là người không có nhà và hộ khẩu Sài Gòn, là người làm ruộng, tới Sài Gòn kiếm sống mỗi vụ nông nhàn , hoặc tá túc làm thuê đôi ba năm, gặp cơ may thì đổi đời quê thành đời phố, nếu không, gom ít vốn liếng rồi “ ta về ta tắm ao ta ”. Số người nhà quê như thế ở Sài Gòn phải cả triệu .
NGƯỜI NHÀ QUÊ ! Đó là cách gọi để phân biệt giữa người nhà quê và người thành thị ? Đó là cách gọi để biểu lộ tình thương, mến thương? Hay đó là cách gọi ám thị sự xem thường, rẻ rúng? Miệng lưỡi con người cộng hưởng cùng ngữ điệu tiếng Việt thành biểu cảm khôn lường . Nhưng với những người dễ động lòng trắc ẩn thì NGƯỜI NHÀ QUÊ là mỹ từ ưu ái dành cho những người còn thuần phác, dễ gần như đất, trong trẻo như sương, hồn nhiên như gió !
Đa số người nhà quê ở Sài Gòn làm thuê trong các khu công nghiệp, khu chế xuất như Hiệp Phước, Tân Tạo, Linh Trung, Vĩnh Lộc… Đó là những công dân nhà quê còn rất trẻ, phần lớn trong biên độ tuổi từ mười sáu đến ba mươi. Láu cá một chút là nhận ra những người nhà quê lần đầu tiên đến Sài Gòn ngay từ bến xe Miền Đông , bến xe Miền Tây, hay ga Hòa Hưng, qua thần sắc, cách ăn mặc, hỏi thăm đường..., của họ .
Vừa chạm đất Sài gòn là người nhà quê phải trả giá cho sự ngơ ngác và hau hắn tìm việc quá lộ liễu. Đầu tiên là cuốc xe ôm mua đường. Từ bến xe Miền Đông đến khu công nghiệp Vĩnh Lộc, lẽ ra thẳng Phan Đăng Lưu, qua lăng Cha Cả tới mũi tàu Cộng Hòa, rẽ Tân Kỳ Tân Qúy, hết Lê Trọng Tấn, băng qua Gò Mây, là đến . Tiết kiệm đường như thế, chỉ nỡ lấy dưới trăm nghìn. Nhưng nếu lươn lẹo, vòng ra An Sương, rẽ lên Bà Điểm rồi mới tới Vĩnh Lộc, vô tư đòi trăm rưởi ngàn mà chỉ tốn thêm năm ngàn tiền xăng, cùng với ánh mắt phân ưu, vài lời cảm thông khuyến mãi, can cớ gì không tính ?
Việc thứ hai người nhà quê cần làm ngay là đến văn phòng giới thiệu việc làm. Tùy theo công việc và mức lương đăng ký, người nhà quê phải nộp khoản phí từ một đến năm trăm ngàn cho một cái hẹn có địa chỉ nhưng rất mơ hồ đạt đích. Không thể hàm hồ mà phán xét những văn phòng việc làm nhè vào đối tượng nai non này để kiếm chác. Nhưng một sự thật hiển nhiên là đa số người nhà quê tìm việc qua con đường từ văn phòng giới thiệu việc làm, mất vài ba lần mua giấy hẹn, việc thì có nhưng làm thì không thể. Rốt cuộc thất nghiệp lại hoàn thất nghiệp. Vì nhân viên văn phòng giới thiệu việc làm rất giỏi kỹ năng giao tiếp nên giả sử có phát hiện ra trò liên minh ma quỷ giữa văn phòng giới thiệu việc làm và các công ty xí nghiệp thì người nhà quê cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt!
Nhưng rồi đa số người nhà quê cũng lọt lưới xuống giỏ, kín mít các khu công nghiệp, chế xuất. Có việc làm rồi, người nhà quê phải kiếm chỗ ăn ngủ thuận với công việc hàng ngày. Kiếm phòng trọ không khó chỉ khó kiếm phòng trọ hợp với túi tiền. Không sao, ông chủ bà chủ các khu nhà trọ ý tứ lắm. Muốn rẻ có rẻ. Ngõ hẹp, cửa nhỏ , tường thấp, điện giá cao, đặt cọc nhiều tháng … Một phòng diện tích từ mười đến mười hai mét vuông, không bao điện nước ở khu vực quận ven thời giá hiện nay khoảng một triệu rưỡi, có thể ở năm người , bình quân mỗi người ba trăm ngàn một tháng, chỉ bằng tiền sáu giờ thuê khách sạn mini, giá vậy không thể bèo hơn. Nhưng nếu người nào đã từng ngủ một đêm, một đêm thôi, ở những phòng trọ như thế ắt phải mủi lòng hoặc thương hại, hoặc khâm phục những người nhà quê đã hàng tháng, hàng năm khổ luyện trong những lò bát quái như thế. Ngủ mà cựa mình là đụng, mồ hôi ra như tắm, thiếu dưỡng khí đến nỗi phải chờ nhau để thở thì ngay cả giấc mơ cũng héo nói gì đến da thịt. Nếu chẳng may hôm nào cúp điện thì chỉ còn cách bơi ra đầu hẻm, chờ gà gáy sáng!
“ Ăn được ngủ được là tiên ”. Người nhà quê ở Sài Gòn ngủ không ngon, nhưng ăn thì rất khỏe, bất kể là cơm, phở, bún, bánh ướt hay gỏi cuốn …Chỉ có điều ăn chủ yếu cho bõ thèm và no bụng còn thực hư chất lượng món ăn, trời biết. Một đĩa cơm mười lăm nghìn. Một tô bún mười hai nghìn. Một gỏi cuốn năm nghìn. Một xị rượu chuối hột hoặc rượu thuốc mười nghìn … Đó là giá nhà quê. Ở Sài Gòn mà được ăn uống với giá nhà quê như thế thì còn mong gì hơn. Không phải vơ đũa cả nắm, nhưng thực phẩm gia vị để chế biến món ăn bình dân với giá nhà quê như thế may ra chỉ có muối hạt là có thể tin được !
Đồng ý rằng xã hội văn minh thì ẩm thực phải có văn hóa. Nghĩa là, thực phẩm phải đảm bảo chất lượng, chế biến đúng cách và ăn uống theo lộ trình. Khó nhất là ăn uống theo lộ trình, ăn uống món gì trước, món gì sau, khi nào thìa, khi nào dao, khi nào dĩa … Nhưng người nhà quê làm thuê ở các khu công nghiệp có muốn thực thi văn hóa ẩm thực cũng không thể. Một là do tiền, ít tiền nên lúc nào cũng chỉ mục đích hạ nhiệt cái đói. Hai là thời gian, thiếu thời gian, tăng ca liên tục nên phải nhai nhanh, nuốt gọn. Bởi vậy văn hóa ẩm thực của họ vỏn vẹn trong bốn từ : Tiện , ngon , nhanh , rẻ !
Nói như vậy không có nghĩa là bức tranh toàn cảnh về người nhà quê làm thuê ở khu công nghiệp, khu chế xuất Sài Gòn chỉ một màu xám xịt . Có nơi, có lúc, có người vui tươi, sáng sủa, vụt lóe như tia chớp trong đêm . Nếu qui ra thóc với giá năm nghìn một ký thì lương hai triệu rưỡi một tháng bằng một nửa tấn lúa. Cũng có số ít công ty xí nghiệp ăn ra làm nên, gặp ông chủ bà chủ khôn ngoan, sợ kiếp sau bị quả báo, chia sớt thêm cho người làm thuê thêm “chút cháo” vào dịp lễ, tết thì cuộc sống của người nhà quê ở Sài Gòn bỗng trở thành giấc mơ của nhiều miền lam lũ. Thử hỏi, ở vùng Năm Căn , Tháp Mười miền Tây, vùng Lào Cai, Lai Châu miền Bắc, hay vùng Ba Tơ , Nghĩa Đàn miền Trung , làm gì có được cái cảnh , sau giờ tan ca , nam thanh nữ tú xúng xính trong bộ đồ nhái hàng hiệu, hoặc diễn ngoài chợ chồm hổm, hoặc ngó ngơ trong siêu thị Coopmart… Đẳng cấp hơn nữa là lướt phím trong tiệm nét , du ngoạn trên cầu Phú Mỹ , chu du bằng hon đa qua hầm Thủ Thiêm, tận hưởng giây phút khuyến mãi của âm thanh sắc màu chốn thị thành. Cao hứng, chụp một vài tấm ảnh kỹ thuật số lấy liền , chỉ mất mấy chục nghìn mà ký gửi cả đời mình vào được cái hình nền giàu sang của Sài Gòn hoa lệ !
Có một bộ phận dân nhà quê không sinh sống thành cộng đồng như ở các khu công nghiệp hay khu chế xuất mà chia nhỏ từng nhóm vài ba người phong tỏa hầu hết ở các công viên xép, ga tàu, bến xe, bùng binh, đầu đường, cuối hẻm.... Một chiến thuật kinh doanh du kích, lấy ít địch nhiều, lấy thô sơ thay hiện đại mà hiệu quả không ngờ. Phải nói rằng, hầu hết các người nhà quê chưa hề biết Marketing là gì nhưng năng khiếu tiếp thị và dự báo thị trường khá nhạy. Nếu các nhà kinh tế học Việt Nam để mắt tới lực lượng kinh tế nhỏ lẻ này để tham mưu chính sách cho chính phủ thì toàn cảnh nền kinh tế nước ta phong phú, bền vững và nhân bản hơn rất nhiều. Việt Nam là nước ở Đông Nam Á, một nước mà kinh tế chợ và đường phố đã trở thành nét văn hóa truyền thống không chỉ của ta, ta thích mà Tây thấy, Tây cũng thích. Thích vì nó phù hợp với tâm lý vừa mua vừa bán vừa giao lưu của người Việt. Thích vì nó tạo ra nguồn thu nhập chính đáng cho những người thất nghiệp. Thích vì nó là con đường ngắn nhất, giá chênh lệch thấp nhất giữa người sản xuất và người tiêu dùng...
Lực lượng người nhà quê phục vụ thức ăn nhanh sáng, chiều và ăn dặm ở Sài Gòn khá đông đảo. Một đôi quang gánh, một chiếc xe đẩy, vài cái ghế đẩu..., là thành quán hàng rong, ngụp lặn suốt ngày giữa dòng xe cộ, giữa nắng mưa, gió bụi, giữa lo sợ bị dân phòng hoặc cảnh sát 113 hốt gọn. Bữa sáng thường là xôi, bánh ướt, bắp luộc, bánh mì... Bữa chiều, hủ tiếu, bánh xèo, hột vịt lộn, gỏi cuốn.... Bữa dặm bánh lăng, sữa đậu nành, bột chiên...Dễ tới hàng trăm món cho sáng, chiều, dặm để thực khách lựa chọn, và mỗi mùa lại thêm món mới, món lạ. Lạ nhất, hót nhất là món bánh tráng trộn. Bánh tráng mỏng, khô, xé vụn, trộn sa tế, muối tôm ăn với rau răm. Lúc đầu món này chỉ dành cho phái nữ lứa tuổi xì tin, sau lan tỏa ra cả cộng đồng. Đỉnh điểm của cơn sốt bánh tráng trộn là vào năm 2010. Bánh tráng trộn thời điểm 2010 chỉ năm trăm đồng một bịch nhỏ, một ngàn một bịch lớn. Người ta thích ăn không phải vì nó rẻ bởi người ăn đa số thuộc gia cảnh trung lưu. Có lẽ vì ăn nó không ngán như cao lương mỹ vị, có thể ăn no, vì nó quyến rũ tái tê được lưỡi mềm răng cứng của thực khách bằng vị mặn mặn của muối, nồng nồng của sa tế, cay cay của rau răm...Thời của bánh tráng trộn cũng là thời dễ thở của người nhà quê ở sài gòn. Vốn ít, bán chạy, hoa hồng cao, ít hư hao, luôn là những câu thần chú mà người nhà quê buôn bán ở sài gòn ngày, đêm tụng niệm !
Loài người thời hiện đại rất chú trọng những di chỉ văn hóa của tổ tiên để lại. Có những dấu tích rõ ra văn hóa như : Cố đô Huế, Hoàng Thành Thăng Long, Quan Họ, Hát Xoan, Hát Xẩm...Nhưng cũng có những giá trị văn hóa bình dị, khiêm nhường, ẩn náu dưới góc khuất đời thường, dễ bị quên lãng, bỏ rơi. Những năm đầu của thế kỷ hai mốt, Thảo Cầm Viên, Kỳ Hòa, Đầm Sen, Suối Tiên..., ở Sài Gòn, xuất hiện khá nhiều nghệ nhân bán Tò He. Tò He là nghề cổ truyền ở vùng Thường Tín, Chương Mỹ Hà Nội. Tò He được nặn từ bột gạo chín, chế màu thực phẩm. Tò He là những con Gà, con Chim, con Lợn, con Ngựa hay các nhân vật trong truyện như chú Tễu, thằng Bờm,Tôn Ngộ Không..., được bàn tay nghệ nhân vê, véo, chắp, nặn..., mà thành. Tò He không lớn chỉ bằng ngón tay ngón chân được xâu vào tăm tre.Tò He ngộ nghĩnh sắc màu, ngô nghê đường nét..., làm rung rinh thời quá vãng của mỗi đời người. Tò He là thứ hàng hóa thơm thảo ẩn chứa nụ cười hồn nhiên con trẻ. Tò He vừa được để chơi và cũng có thể ăn. Tò He là giấc mơ xuân của trẻ nghèo trong những phiên chợ tết ở xứ Bắc ngày xưa....Chỉ bấy nhiêu về Tò He thôi cũng đủ thấy người nhà quê nặng lòng toan tính cho cuộc mưu sinh ở Sài gòn như thế nào. Nghe nói mấy năm trước, nghề Tò He cực kỳ phát đạt, có ngày, một cặp vợ chồng người nặn, người bán, lãi ròng năm sáu trăm nghìn.
Những nghề mà người nhà quê tha phương cầu thực ở đường phố sài gòn có đến hàng trăm. Bán dạo cá cảnh, cây cảnh, tôm, gà, cua, ghẹ...Rồi ép dẻo, xỏ lỗ tai, cân sức khỏe, vé số....Có nghề phải lông nhông, oang oang ngoài đường như bán keo dính chuột. Mấy chục năm rồi mà chiếc loa kim gắn ở ghi đông xe đạp vẫn cứ y nguyên một điệp khúc vang lên: “Trung tâm công nghệ hóa dầu vừa mới cho ra đời keo dính chuột...”. Cái điệp khúc mấy chục năm về trước hễ cứ phát ra là làm người ta không nghe cũng phải ngóng, ngay cả lũ chuột cống xám đang rung râu ở cái miệng hố ga hai bên đường cũng phải giật mình thụt vào. Còn bây giờ cũng người, cũng loa, cũng điệp khúc ấy mà nghe nó lạc lõng, cũ kỹ..., không ai muốn nghe nữa. Không ai muốn nghe nữa nên nghề ấy bây giờ ế lắm!
Ở Sài Gòn, cái bang cũng gọi là một nghề . Gọi là nghề vì cái bang Sài Gòn không nghiệp dư như cái bang thời xưa chỉ duy nhất một màn ca cẩm “con lạy bà, lạy ông, cho con xin...” mà là thông qua đàn hát, gia cảnh, dung nhan, ngoại hình, rồi chỉ ngửa mũ, ngửa nón..., chứ không nói gì cả. Có những cái bang xịn hơn, gắn bốn bánh xe đẩy vào miếng ván gỗ có gắn loa, nằm ngửa lên sao cho lộ hết khuyết tật của cơ thể, mở băng tụng kinh niệm phật, lăn lóc dưới lòng đường phố. Người ta đồn rằng cái bang Sài Gòn không lấy tiền lẻ. Đúng vậy, cầm tờ hai trăm đồng hay năm trăm đồng mà cho những con người cùng bất đắc dĩ phải chìa tay ra thì người cho cũng thấy ngượng!
Nếu ngọn nguồn theo sử, thì Việt Nam ta hàng trăm năm nay đã có những vùng quê cả làng cùng rủ nhau ra phố ăn xin. Báo chí một thời cũng đã lên tiếng về vấn nạn cái bang ở Sài Gòn, lật tẩy những chiêu diễn nghèo khó, bệnh tật, lợi dụng trẻ em mồ côi cơ nhỡ..., để vòi vĩnh tình thương đồng loại của một số cái bang tán tận lương tâm. Một vài thành phố còn thẳng tay triệt hạ cái bang, cứ nghĩ thành phố không còn bóng dáng cái bang là thành phố xanh, sạch, đẹp. Đành rằng là người ai cũng dễ nhiễm cái tật “béo tốt khoe ra, xấu xa đậy lại”. Nhưng chắc chắn cái bang không xấu xa, nguy hiểm, phương hại đến tồn vong của dân tộc như tham nhũng, trộm, cắp, giết người, ma túy, xử án tùy tiện... Cái bang chỉ là căn bệnh thời tiết sẽ tự khỏi nếu cơ thể khỏe mạnh!
Cứ tưởng tượng đến một ngày nào đó, Sài Gòn không còn người nhà quê nữa thì buồn lắm. Buồn, vì không còn được ăn những món khoái khẩu trên những chiếc xe đẩy, những quang gánh hàng rong. Buồn, vì không còn được nghe những tiếng rao khuya “bánh giò, bánh chưng, bánh mỳ...đơ...đây...”. Buồn, vì thành phố không còn phảng phất mùi khoai nướng, bắp xào, chuối chiên... Buồn, vì không còn được sẻ chia niềm vui, nỗi buồn của những người mẹ, người cha quê mùa nghèo khó, hàng ngày chắt chiu, nâng niu từng đồng, từng cắc nuôi con ăn học như thể những dòng sông gầy còm, gom nhặt phù sa bồi đắp cho bãi bờ...Nhưng có lẽ buồn nhất là chỉ còn được ngắm bức tranh phố với những gương mặt mà thần sắc nhang nhác như nhau, những gương mặt dễ bị khiếm khuyết, phai màu, xuống sắc, nếu thiếu son phấn, hàng hiệu, tiện nghi, quyền lực, và tiền bạc!
SÀI GÒN CUỐI THU
Ngô Quốc Túy
(Cảm ơn tác giả đã gửi bài tới Quê Nhà)
(Cảm ơn tác giả đã gửi bài tới Quê Nhà)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét