Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Những dòng sông hát

                                                                                 
Sông là bạn từ thuở hồng hoang của con người. Sông nuôi người, ru người, gìn giữ cho người hành trang văn minh qua từng thế kỷ. Sông làm cho trái đất mềm mại, lãng mạn, ngọt ngào. Không có sông, hành tinh này chỉ là địa cầu của biển mặn mòi và núi đồi sỏi đá!


                                                                                NGÔ QUỐC TÚY

Sông làm cho trái đất mềm mại, lãng mạn, ngọt ngào. Từ thuở hồng hoang...

    Việt Nam là đất nước nhiều sông. Mỗi dòng sông đều có vẻ đẹp riêng. Sông làm cho nhan sắc giang sơn hình chữ S thêm lung linh, tươi mát, trẻ trung. Hình như  người Việt nào cũng lộng gió một nguồn sông, ngọn suối!

    “Hai bên là núi giữa là sông”
    Ở xứ Bắc, những dòng sông thường bắt đầu từ ngút ngàn Tây Bắc, xuôi hướng Đông Nam, về biển . Sông Hồng còn được gọi là sông Cái, Hồng Hà. Đó là “dòng sông mẹ” của châu thổ đồng bằng Bắc bộ. Sông Hồng dài 1.149 km, đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc dài 639 km có tên là Lại Giang, đoạn chảy trên lãnh thổ Việt Nam dài 510 km, khi qua Phú Thọ còn có tên là sông Thao, khúc cua Hà Nội lại được gọi Nhị Hà, lưu lượng 83,5 tỷ m3, mỗi năm bồi lắng cho miền hạ lưu hơn 100 triệu tấn phù sa. Sông Hồng chảy qua 9 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình. Khi về tới đất tổ Hùng Vương, Hồng Hà ngẫu hứng uốn lượn hình chữ S, linh ứng một hình hài lãnh thổ quốc gia “định phận tại thiên thư” hàng nghìn năm sau đó. Bạch Hạc, Hồ Tây, Tràng An, Bát Tràng, phố Hiến…là những dấu ấn hào hoa, phóng đãng, rơi vãi buồn vui, nghẹn ngào sa đỏ của sông Cái nổi tiếng thất thường, đồng bóng theo mùa! 


Sông Đà ghềnh thác hóa thân sóng nước thành nguồn thủy điện khổng lồ.

    Những phụ lưu và phân lưu của sông Hồng như sông Đà, sông Lô, sông Đuống, sông Luộc, sông Đáy…cũng thật xứng danh với dòng sông Mẹ. Người anh em của sông Hồng là sông Đà ngựa chứng. Sông Đà vật vã, hổn hển, nứng tình trong văn chương Nguyễn Tuân. Sông Đà ghềnh thác hóa thân sóng nước thành nguồn năng lượng thủy điện khổng lồ Hòa Bình (công suất 1.920 MW), Sơn La (công suất 2400 MW) , thắp sáng mọi miền Tổ Quốc. Sông Đà dài 910 km, còn có tên là Lý Thiên Giang, bắt nguồn từ núi Nguy Bảo, cung cấp 30% lượng nước cho sông Hồng ở ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. 


Sông Đáy- như thể tạo hóa vẽ vời về một khúc sông vắng trời!


    Phân lưu sông Đáy chảy qua 4 tỉnh là Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Sông Đáy được xem như dòng sông hoa khôi xứ Bắc. Sông Đáy còn được gọi là sông Hát, sông Gián Khẩu, sông Thanh Quyết, dài 240 km. Không ai nghĩ đây là con sông đào, sông nhân tạo vì hai bờ dòng chảy phô ra biết bao giai phẩm thi, nhạc, họa, như thể tạo hóa vẽ vời về một quãng vắng sông trời! Một phần lưu lượng của sông Đáy tiếp nhận từ dòng thiền suối Yến, khơi nguồn tâm linh về miền Hoa Lư, Bái Đính. Sông Đáy nổi danh với bến Vân Đình, Hương Tích, Miếu Hát, Dục Thúy Sơn… Đặc biệt là thắng cảnh quốc gia Kẽm Trống với những núi Rùa, núi Trinh Tiết, núi Bài Thơ, núi Bồng, núi Vọng…, làm cho nữ thi sĩ họ Hồ bỗng dưng nổi hứng trước “tòa thiên nhiên”, không rõ của tiên nữ hay của gái trần gian mà lồ lộ “ Hai bên là núi giữa là sông. Có phải nơi này Kẽm Trống không?... Qua cửa mình ơi nên ngắm lại. Nào ai có biết nỗi bưng bồng”!


Nhà thơ Hoàng Cầm trầm ngâm bên dòng sông đã trở thành tác phẩm để đời- "Bên kia sông Đuống" của ông.


    Hai đứa con đáng kể khác của sông Hồng là sông Luộc và sông Đuống. Sông Đuống còn có tên là sông Thiên Đức, dài 68 km nối sông Hồng ở ngã ba Dâu với sông Thái Bình ở ngã ba Mỹ Lộc. “Bên kia sông Đuống” có núi Thiên Thai, có chùa Bút Tháp, có “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong”, và có cả những chiếc lá diêu bông ảo vọng, ỡm ờ, làm cho những câu thơ của Hoàng Cầm hát mãi. Sông Luộc suýt soát sông Đuống, còn có tên là sông Phú Nông. Từ thuở xa xưa, Phú Nông giang đã động lòng trắc ẩn tác giả truyện Kiều thành bài thơ chữ hán “Độ Phú Nông giang cảm tác”. Bài thơ làm ngư phủ nao lòng, nông phu đắc chí : “Du nhân vô hạn cảm. Phương thảo biến thiên thai” (Khách du hành cảm tình chan chứa. Cỏ thơm xanh rợn chân trời). Phú Nông giang đúng là nguồn nước thảo thơm đem lại sự giàu có cho nghề chài lưới và cày cuốc vậy.

 Sông Lô- hội tụ đủ đầy vẻ đẹp giang hồ, bi tráng, kỳ vỹ của sóng nước miền sơn cước  


Sông Lô không lớn bằng sông Hồng, không dữ dằn như sông Đà, không mỹ miều như sông Đáy nhưng hội tụ đủ đầy vẻ đẹp giang hồ, bi tráng, kỳ vỹ của sóng nước miền sơn cước. Sông Lô bắt nguồn từ Vân Nam- Trung Quốc với tên gọi là Bàn Long Giang. Phụ lưu chính của sông Lô là sông Chảy, sông Gâm. Sông Chảy giao duyên với sông Lô ở Đoan Hùng, Phú Thọ. Sông Gâm hợp thủy với sông Lô ở Khe Lau, Tuyên Quang. Sông Lô chảy trên lãnh thổ Việt Nam 274 km, từ Hà Giang, qua Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, đến ngã ba Bạch Hạc hợp lưu với sông Hồng. Lô giang chảy và ngân lên âm hưởng của những ca khúc bất hủ như “Trường ca sông Lô” của Văn Cao, “Lô giang” của Lương Ngọc Trác, “Bến Bình Ca” của Nguyễn Đình Phúc, “Tiếng hát sông Lô” của Phạm Duy…Sông Lô còn mãi những tượng đài chiến thắng hào hùng năm 1947, trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của dân tộc. Di chỉ đồ đá cũ Sơn Vi, tháp Bình Tiên, bến Gót, Cung Tam Giang…, góp cho Lô giang thành pho huyền sử , lung linh huyền thoại. Có những thủy sản cực hiếm chỉ có ở sông Lô như cá Chiên, cá Lăng, cá Anh Vũ. Cá Chiên ngon nhất ở khúc giao thoa hai dòng Lô- Bạc, thịt trắng, thơm, ngọt. Cá Lăng lưu trú nhiều ở ngã ba Bạch Hạc, loại cá này đã làm nên danh tiếng chả cá Lã Vọng trên đất Hà Thành. Cá Anh Vũ sống chỗ nước trong, nơi hang đá sâu, chỉ bơi ra dòng lúc khuya lạnh. Anh Vũ có khối sụn lớn ở môi, loe ra như mõm lợn. Ăn cá Anh Vũ hấp gừng cách thủy ngon, bổ lại luôn gặp may mắn. Một con cá Anh Vũ nặng 3kg, giá hiện nay khoảng 20 triệu đồng.

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"


    “Ơi con sông đã tắm cả đời tôi”
    Khác với miền Bắc, những dòng sông miền Trung, nếu không phải mùa mưa lũ, thường trong xanh tận đáy, cát trắng hai bờ, mây trời soi bóng, nước lững lờ trôi. Trong số những con sông lớn ở miền Trung, sông Mã, đúng như tên gọi, là con sông ngựa, ngựa hoang phi nước kiệu. Sông Mã còn có tên là sông Lỗi Giang, có ba phụ lưu đáng kể là sông Bưởi, sông Chu và sông Cầu Chày. Ngã ba Bông trên sông Mã được xem như đấu trường giang, nơi thử sức khốc liệt nghề sông nước. Ở ngã ba Bông có những vùng nước xoáy, có thể “nuốt” bất kể thuyền, bè to nhỏ, nếu thiếu kinh nghiệm lèo lái. Thượng nguồn sông Mã đã góp phần làm thăng hoa nguồn cảm hứng của Quang Dũng thành kiệt tác “Tây Tiến”, với những câu thơ bi tráng : “Áo bào thay chiếu anh về đất. Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Hạ lưu sông Mã có cầu vòm thép do Pháp xây dựng năm 1904,  nối núi Rồng với núi Ngọc mà đầu thế kỷ trước, giấc mơ hỏa xa vào Nam ra Bắc của Nguyễn Khắc Hiếu “Có ngày xe lửa đi qua. Trong xe lại có Tản Đà đứng trông” (“Nhớ cảnh Hàm Rồng”-Tản Đà), trở thành hiện thực.

“Sông Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát”


    “Sông Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát”, mới đích thực là con sông của miền Trung gió Lào cát trắng “thổi cong” đời sông suối, đời cỏ cây, đời người…, như hình hài rẻo đất này vậy. Sông Lam có 6 tên : Sông Cả, Ngàn Cả, Nam Khan, Lam Giang, Thanh Long Giang, Lam Thủy, là một trong hai con sông lớn nhất Bắc Trung bộ. Bắt đầu từ cao nguyên Xiêng Khuang-Lào, sông Lam có 2 nguồn. Nguồn chảy qua núi Thành Nam gọi là nguồn Tương. Nguồn chảy qua Quì Châu gọi là nguồn Hiếu. Đến Hà Tĩnh, sông Lam hợp lưu với sông La, chảy ra cửa Hội. Sông Lam cùng với Hồng Lĩnh, tạo nên vùng văn hóa Lam Hồng. Thượng nguồn có thác Xao Va, thấp thoáng bản làng và những bãi tắm tiên của các cô gái Thái. Hạ nguồn, sông Lam mơ màng tĩnh lặng trong khói sóng hoàng hôn, thấp thoáng bóng Thúy Kiều ghé làng quê Tiên Điền viếng thi nhân họ Nguyễn!


Cửa sông Nhật Lệ- nơi quê nhà Quảng Bình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Thu Bồn- dòng sông thuần Việt, mênh mang diệu vợi hồn xứ Quảng


    Trong số những dòng sông “đàn chị” ở miền Trung, Thu Bồn là dòng sông thuần Việt, dòng sông mênh mang diệu vợi hồn người xứ Quảng. Đó cũng là dòng sông  trầm tích những địa tầng tâm linh, những di chỉ văn hóa phương Đông nổi tiếng. Sông Thu Bồn khởi nguồn từ núi Ngọc Linh, huyện Đak Ghi, tỉnh Kon Tum. Đoạn thượng lưu gọi là Dak Di, chảy qua bắc Kon Tum- nam Quảng Nam. Đoạn trung lưu chảy qua Trà My, Tiên Phước, Hiệp Đức, gọi là sông Tranh. Hạ lưu của Thu Bồn huyết mạch với hàng chục chi lưu có những cái tên đẹp như cổ tích, đó là dòng Túy Loan, Quảng Huế, Chu Bái, Đình Giang, Cổ Cò…Thu Bồn tắm mát bãi bờ, tươi xanh 10.350 km2 lưu vực, nuôi dưỡng mấy chục vạn cư dân. Tình sử của nàng thôn nữ hái dâu họ Đoàn đất Chiêm Sơn với công tử Nguyễn Phước Lan, sau sinh ra “Chúa Hiền” Nguyễn Phước Tần, cùng với dấu tích đền đài, thành quách của thánh địa Mỹ Sơn và đô thị cổ Hội An, mãi làm cho dòng Thu Bồn soi bóng hồn cốt của vương quốc Chăm trường tồn cùng sử Việt.

Sông Hương bẽn lẽn bên Ngự Bình làm nên xứ Huế thơ


    Sông Hương xứ Huế là dòng sông đẹp nhất nước Việt và cũng là một trong mười dòng sông đẹp nhất thế giới. Nhưng sông Hương không chỉ đẹp mà còn thơm nữa, điều bí mật này rất ít người được biết. Sông Hương thường tỏa mùi thơm vào tiết lập đông lúc nửa khuya về sáng. Nguyên do là rễ cỏ thạch xương bồ ở thượng nguồn sông Hương sau bốn mùa tích tụ dưỡng chất từ đất đá và nắng gió của Trường Sơn Đông đã chiết xuất tinh dầu vào dòng nước này. Tên tuổi của sông Hương cũng ba chìm bảy nổi theo dòng chảy thời gian. Năm 1435 là Sông Linh. Năm 1555 là Kim Trà. Năm 1634 là Lô Dung. Cuối thế kỷ 17 còn 2 lần thay tên là Sông Dinh và Yên Lục. Sông Hương là kết quả giao hợp của nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch. Đến ngã ba Sinh, sông Hương hợp hôn với sông Bồ. Trước khi về biển, Hương giang còn “đi bước nữa” với Ô Lâu ở phá Tam Giang. Một dòng sông vừa đẹp vừa thơm vừa đa tình như thế, đương nhiên làm Nguyễn Du cảm khái chỉ vì “Hương giang nhất phiến nguyệt. Kim cổ hứa đa sầu” ( Một mảnh trăng dòng sông Hương. Xưa nay sầu vấn vương ). Khi về gần kinh thành Huế, khúc Hương từ ngã ba Bình Lãng đến cửa Thuận An, dài 33km chảy chậm lại như thể bẽn lẽn khi nhìn thấy Ngự Bình. Đến sát chân núi Ngọc Trản, sông đằm xuống, sâu hơn, xanh hơn, dòng nước trầm mặc tâm linh trước điện Hòn Chén. Dòng sông đẹp nào cũng có miền gái đẹp. Kim Long, Nguyệt Biểu, Vĩ Dạ, Đông Ba, Nam Phố…, ven bờ Hương là những làng gái đẹp thấp thoáng những thành quách, chùa chiền, lăng tẩm. Nếu không có Hương Giang thì thơ Huế, nhạc Huế, tranh Huế, trăng Huế, mưa Huế…sẽ không còn nhiều người nhớ nữa!


Vàm Cỏ đông- “Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng”


             Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng".
    Hình như những dòng sông phương Nam thường thiên về vẻ đẹp của văn hóa ẩm thực, văn hóa thị thành. Cửu Long giang làm nên vựa lúa, vựa cá, vựa trái cây bằng tất cả các dòng sông Việt khác cộng lại. Đồng Nai, Vàm Cỏ Đông, Thị Vải, Bến Nghé bao quanh những đô thị sầm uất như Biên Hòa, Bình Dương, Sài Gòn, Tân An, đóng góp hơn nửa GDP cho cả nước. Những dòng sông phương Nam hầu như không cần đê chắn lũ nên bờ bãi miên man, thủy triều phóng đãng. Cũng như sông Hương, sông Sài Gòn là dòng sông nội địa, bắt nguồn từ Hớn Quảng- Bình Phước. Sông Sài Gòn còn có tên là Bến Nghé, Ngưu Chử, Tân Bình, Thủ Khúc, Ngã Cái, hợp lưu với sông Nhà Bè ở Rừng Sác rồi đổ ra vịnh Đồng Tranh. Bến Nghé chảy đến Sài Gòn vẽ vời như rồng bay phượng múa. Có khúc động tình, bầu bí thành bán đảo du lịch Thanh Đa- Bình Quới. Có khúc vòng vo quẫy sóng sinh nở ra giàu sang đô hội Thủ Thiêm, Tân Thuận… Sông Sài Gòn chỉ dài 256km nhưng lưu vực rộng tới 5000 km2, nhiều nơi sâu đến 20m, phía hạ lưu chỗ nào cũng có thể lập ra thương cảng, thị tứ. Bởi vậy, từ xa xưa, từ cửa sông này, người Ấn, người Bồ, người Pháp…, đã mon men nhòm ngó, khiến dân ta nửa cuối thế kỷ 19 phải “Chạy giặc” dáo dác như bầy chim mất tổ : “Bến Nghé của tiền tan bọt nước. Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây” (Nguyễn Đình Chiểu). Rồi gần một thế kỷ sau đó, những ca khúc về dòng sông phương Nam như Vàm Cỏ Đông “Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng”, “ Cửu Long giang sông trào nước xoáy” còn vang mãi tình yêu quê hương đất nước. 

Về bến Ninh Kiều thấy chàng đợi người yêu...


    Ứng xử với những dòng sông là thước đo văn hóa của cộng đồng, của quốc gia, của nhân loại. Được chảy giữa hai bờ loài người nhân hậu, dòng sông nào cũng hát!

                                                                                   SÀI GÒN 2013 – N.Q.T 
                                                                      (Cảm ơn tác giả đã gửi bài đến Quê Nhà)

Không có nhận xét nào: